Trong những năm gần đây, hoạt động cho
vay lãi nặng của các nhóm tội phạm đã và đang diễn ra rất phức tạp với những
phương thức và thủ đoạn hết sức tinh vi và xảo quyệt. Để kịp thời đấu tranh
phòng, chống tội phạm, bảo đảm ổn định tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, bảo vệ tính mạng, sức khỏe và tài sản của công dân, BLHS năm 2015 đã kịp
thời sửa đổi, bổ sung quy định của BLHS năm 1999 từ “Tội cho vay lãi nặng”
thành “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” để phù hợp với các quy định
mới của BLDS năm 2015 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Việc nghiên
cứu lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự từ giai đoạn khởi tố, điều
tra, truy tố và xét xử đối với các vụ án về Tội cho vay lãi nặng trong giao
dịch dân sự còn bộc lộ những hạn chế, khó khăn, vướng mắc nhất định như thiếu
văn bản hướng dẫn, các văn bản pháp lý liên quan đã ban hành còn chồng chéo,
mâu thuẩn, một số văn bản không còn phù hợp với thực tiễn áp dụng. Vì vậy, hành
vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự cần phải được nhận thức và áp dụng
thống nhất nhằm đấu tranh phòng, chống tội phạm một cách hiệu quả.
Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc
về quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về Tội cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự, bảo đảm cho quá trình thực thi pháp luật hình sự
được chính xác, xử lý đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn để qua đó
có những kiến nghị hoàn thiện pháp luật, và đề xuất những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về Tội
cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là điều cần thiết.
1. Dấu hiệu pháp lý của
Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
Điều 201 BLHS năm 2015 quy định Tội cho vay lãi nặng trong giao
dịch dân sự như sau
“1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất
gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu
lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt
vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa
án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000
đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội mà thu lợi
bất chính 100.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đến
1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm
3. Người phạm tội còn có
thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đến 100.000.000, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Khách thể của tội phạm
Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự xâm phạm đến khách
thể là trật tự quản lý kinh tế của nhà nước về hoạt động tín dụng, mà cụ thể là
trật tự trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ; xâm phạm đến lợi ích tài chính của
công dân.
Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân
sự được quy định tại khoản 1 Điều 201 BLHS năm 2015 đó là hành vi cho vay với
lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong BLDS. Tuy
nhiên, để hành vi cho vay với lãi suất gấp 5 lần trở lên đạt đến mức độ nguy
hiểm đáng kể cho xã hội và trở thành tội phạm thì phải đáp ứng điều kiện về số
tiền thu lợi bất chính là từ 30.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 30.000.000 đồng hoặc
đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Đặc trưng trong Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là
mức lãi suất do các bên thỏa thuận trong hợp đồng vay tài sản. BLHS quy định
dấu hiệu bắt buộc để cấu thành Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là “Cho
vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ
luật dân sự”. Để làm rõ dấu hiệu này trong mặt khách quan của Tội cho vay
lãi nặng trong giao dịch dân sự thì chúng ta phải làm rõ quy định của BLDS về
lãi suất.
Theo quy định tại Điều 468 BLDS năm 2015 thì lãi suất trong hợp
đồng vay được xác định như sau:
“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo
thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật
khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của
Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói
trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn
được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có
thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp
về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định
tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”.
Bộ luật dân sự năm 2015 cho phép các bên tự thỏa thuận với nhau
về lãi suất đồng thời cũng quy định thêm về mức lãi suất tối đa mà các bên được
phép thỏa thuận, mức lãi suất này không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền
vay. Như vậy, theo quy định tại Điều 468 BLDS và Điều 201 BLHS năm 2015 thì các
giao dịch vay tiền mà lãi suất từ 20%/năm của khoản tiền vay trở xuống là giao
dịch có lãi suất hợp pháp, nếu các bên trong giao dịch dân sự có thỏa thuận về
mức lãi suất từ 21% đến dưới 100%/năm thì đây là trường hợp lãi suất theo thỏa
thuận vượt quá lãi suất giới hạn được pháp luật cho phép, đây là giao dịch bất
hợp pháp, mức lãi suất vượt quá sẽ không có hiệu lực pháp luật, nhưng chưa đến
mức bị xử lý về hình sự. Trong trường hợp này bên cho vay có trách nhiệm trả
lại khoản tiền lãi vượt quá đã nhận của bên vay “Các bên khôi phục lại tình
trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”. Trường hợp các bên thỏa
thuận mức lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong
BLDS tức là 100%/năm của khoản tiền vay trở lên, đây điều kiện cần để xác định
một hành vi có bị coi là phạm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự hay
không.
Lãi suất cho vay cao hơn gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất mà
pháp luật quy định. Cụ thể: Lãi suất suất cao nhất mà pháp luật quy định trên
tháng là: 5 lần x 1,666% (20%/năm => 1,666%/tháng) = 8,33%. Do đó, nếu mức
lãi cho vay hàng tháng mà cao hơn con số này thì có thể sẽ bị truy tố về tội
danh trên.
Để hành vi cho vay với lãi suất từ gấp 5 lần trở lên của mức lãi
suất cao nhất quy định trong BLDS thỏa mãn dấu hiệu cấu thành Tội cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự thì phải đáp ứng thêm điều kiện về số tiền thu lợi
bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Người cho vay phải thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng
trở lên.
– “Thu lợi bất chính”” là số tiền lãi vượt quá
mức lãi suất vay cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự và các khoản thu
trái pháp luật khác của người vay.
– Trường hợp hành vi cho vay lãi nặng được thực hiện với nhiều
người thì khoản tiền thu lợi bất chính được xác định là tổng số tiền lãi mà
người phạm tội thu được của tất cả những người vay.
– Số tiền Thu lợi bất chính không chỉ là phần lãi suất vượt quá
quy định của Nhà nước, mà bao gồm cả các khoản thu trái pháp luật khác do các
đối tượng cho vay lãi nặng tự đặt ra buộc người vay phải trả, như: phí giao
dịch (chi phí đi thu tiền hàng tháng, hàng ngày…) hoặc các khoản tự đặt ra để
phạt người vay.
Thứ hai, Đã bị xử phạt hành chính về hành vi cho vay lãi nặng mà
còn vi phạm: Dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính” đã được đưa vào làm một
trong những điều kiện để trở thành dấu hiệu định tội của Tội cho vay lãi nặng
trong giao dịch dân sự được ghi nhận tại khung cơ bản của điều luật (Khoản 1
Điều 201 BLHS năm 2015). Theo quy định của BLHS trước đây, dù một người bị xử phạt
hành chính nhiều lần về hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự nhưng
không đủ định lượng về khoản tiền thu lợi bất chính thì cũng không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Điều này làm xuất hiện tình trạng nhiều người sẵn sàng bị
xử phạt hành chính nhiều lần về hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
mà không hề sợ, không hề từ bỏ việc cho vay lãi nặng. Bên cạnh đó, chế tài hành
chính áp dụng đối với người có hành vi cho vay lãi nặng tương đối nhẹ. Hình
thức xử phạt là phạt tiền nhưng mức tiền phạt rất thấp. Theo quy định tại điểm
d, khoản 4, Điều 12 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2021 quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã
hội; phòng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ, phòng
chống bạo lực gia đình thì mức tiền phạt đối với hành vi cho vay lãi nặng chỉ
từ Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Như vậy vô hình chung, xử
phạt vi phạm hành chính không có hiệu quả trong phòng, chống, ngăn ngừa, răn đe
đối với người có hành vi cho vay lãi nặng. Nếu áp dụng xử phạt hành chính nhiều
lần mà không lấy đó làm căn cứ, điều kiện để bị truy cứu trách nhiệm hình sự
thì không đủ sức răn đe cũng như gây bất công trong xã hội.
Thứ ba, Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm được sử dụng để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là trường hợp trước khi thực hiện
hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, người phạm tội đã bị Tòa án
kết án về Tội cho vay lãi nặng theo Điều 171 BLHS năm 1985 hoặc Tội cho vay lãi
nặng theo Điều 163 BLHS năm 1999 hoặc Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân
sự theo Điều 201 BLHS năm 2015 nhưng chưa được xóa án tích theo quy định tại
Chương X BLHS năm 2015 nay lại tiếp tục phạm tội cho vay lãi nặng.
Ngoài việc cho vay tiền tệ thì hiện nay hành vi cầm đồ cũng là
một trong những hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự nếu lãi suất
cầm đồ từ 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong BLDS, thu lợi
bất chính từ 30.000.000 đồng, bởi xét về bản chất hành vi cầm đồ thực chất là
cho vay tài sản có cầm cố tài sản.
– Mặt chủ quan
của tội phạm
Về lỗi: Người phạm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu
quả do hành vi đó gây ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc tuy không mong
muốn nhưng để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
– Chủ thể của tội
phạm
Trong pháp luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm là người
có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại đã thực hiện hành vi
phạm tội cụ thể được luật hình sự quy định là tội phạm. Tội cho vay lãi nặng
trong giao dịch dân sự không phải là một trong những tội danh thuộc phạm vi
chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 76 BLHS năm 2015. BLHS hiện hành quy định chỉ
chủ thể là cá nhân mới phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội cho vay lãi nặng
trong giao dịch dân sự. Luật hình sự Việt Nam không quy định như thế nào là
trường hợp có năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định về tình trạng không
có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21 BLHS năm 2015). Như vậy, có thể rút ra
được một người được coi là có năng lực trách nhiệm hình sự khi người đó đạt một
độ tuổi nhất định theo quy định của BLHS, có đủ khả năng nhận thức và khả năng
điều khiển hành vi của mình tức là không rơi vào trường hợp không có năng lực
trách nhiệm hình sự.
Các dấu hiệu định khung của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch
dân sự. Tội cho
vay lãi nặng trong giao dịch dân sự có một dấu hiệu định khung là “thu lợi
bất chính” theo quy định tại Khoản 2, Điều 201 BLHS năm 2015 “Phạm tội
mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên”, đây là khung tăng nặng
trách nhiệm hình sự.
2. Một số vướng mắc trong
việc áp dụng quy định của pháp luật.
Hiện nay, đối với Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự đã
có nghị quyết số 01/2021 ngày 20/12/2021 hướng dẫn áp dụng Điều 201 của bộ luật
hình sự và việc xét xử vụ án hình sự về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch
dân sự. tuy nhiên, theo tác giả, trên thực tiễn vẫn còn một số vấn đề vướng
mắc. cụ thể như sau:
Thứ nhất, Về phạm vi điều chỉnh của Điều 201 BLHS về Tội cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự. Điều 201 BLHS năm 2015 quy định phạm vi điều chỉnh
của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là cá nhân, tuy nhiên theo tác
giả nhận thấy Điều 201 BLHS năm 2015 quy định chủ thể của tội phạm này chưa đầy
đủ: Hiện nay nhiều doanh nghiệp được thành lập dưới hình thức như Công ty trách
nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, công ty đại lý tài chính cho vay… những doanh
nghiệp này được thành lập hợp pháp, có cơ cấu chặt chẽ, có tài sản độc lập và
tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, họ trực tiếp nhân danh pháp nhân khi
tham gia các quan hệ pháp luật với mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi
nhuận được chia cho các thành viên (hay còn gọi là pháp nhân thương mại).
Tuy nhiên, các công ty này đã thực hiện các hoạt động kinh doanh không đúng với
ngành nghề đã đăng ký hoặc tổ chức các hoạt động phi pháp để thu lợi nhuận. Các
doanh nghiệp này thường hoạt động dưới các dạng như tài trợ cho khách hàng một
khoản tiền để mua sản phẩm và trả góp hàng tháng với lãi suất rất cao, hoặc cho
vay tiêu dùng với lãi suất cao lên đến 100%/năm, thu lợi bất chính từ
30.000.000 đồng nhưng lại không có cơ sở để xử lý các công ty này về hành
vi cho vay lãi nặng. Việc bổ sung chủ thể chịu trách nhiệm hình sự về Tội cho
vay lãi nặng trong giao dịch dân sự của pháp nhân góp phần đáp ứng đòi hỏi cấp
bách của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong thời gian tới,
đồng thời, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Thứ hai, khó khăn khi xác định lãi suất trong yếu tố cấu thành
tội phạm
Trong vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, việc xác
định lãi suất là yếu tố bắt buộc, tuy nhiên, việc tính được lãi suất là bao
nhiêu và vượt quá bao nhiêu lần so với mức lãi suất cao nhất được quy định
trong BLDS năm 2015 gặp rất nhiều khó khăn, thông thường thông qua các chứng
cứ, tài liệu thu thập được để làm rõ số tiền vay, ngày vay, ngày trả, lãi suất,
số tiền đã thu được, số tiền chưa thu được từ người vay… đây là những căn cứ để
xác định hành vi cho vay lãi nặng có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay không,
nhưng trên thực tế việc chứng minh lãi suất rất khó vì nhiều nguyên nhân như:
hợp đồng vay bằng miệng hoặc có giấy vay tiền nhưng không có trình tự, thủ tục
vay mượn chính thống mà được che đậy bằng các loại hợp đồng giả cách như hợp
đồng ủy quyền mua bán xe, mua bán nhà đất … để đảm bảo cho khoản vay, hợp đồng
không thể hiện lãi suất, hoặc có thể hiện lãi suất nhưng lại ghi với mức lãi
suất thấp hơn rất nhiều so với lãi suất thực tế, hoặc bên cho vay tính luôn
tiền lãi gộp cùng tiền gốc, ghi trong hợp đồng thành tiền nợ, có những trường
hợp, hợp đồng từ nhiều năm trước nhưng chưa trả được lãi nên số tiền lãi được
nhập lại để tính thành khoản tiền gốc hoặc khi giao nhận tiền lãi không có giấy
tờ biên nhận nên khi phát hiện không có chứng cứ vật chất thể hiện việc cho vay
lãi nặng, do chỉ căn cứ vào lời khai dẫn đến việc chứng minh số tiền thu lợi
bất chính để xử lý các đối tượng cho vay lãi nặng gặp khó khăn.
Ví dụ: Nguyễn Thị H cho ông Ngô Văn S vay số tiền 80.000.000 đồng
và hai bên đã che giấu hành vi cho vay lãi nặng bằng một hợp đồng chuyển nhượng
thửa đất thuộc Lô số 1882, Tờ bản đồ số 9, có diện tích 157m2, địa
chỉ xóm 14, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An (Thuộc chủ sở hữu của chị Ngô Thị M và
anh Trương Văn X là con gái và con rể của ông S), thực chất là để bảo đảm nghĩa
vụ cho khoản vay 80.000.000 đồng mà ông S đã vay của H, trong trường hợp này,
muốn chứng minh hành vi cho vay lãi nặng của bà Nguyễn Thị H thì phải chứng
minh được hợp đồng chuyển nhượng thửa đất trên là hợp đồng giả cách nhằm che
giấu hành vi cho vay lãi nặng, mặt khác, hai bên chỉ thỏa thuận bằng miệng về
lãi suất, việc xác định lãi suất vay trong trường hợp này cực kỳ khó khăn cho
cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ ba, không thống nhất cách xác định số tiền thu lợi bất chính
trong yếu tố cấu thành tội phạm.
Một là, trường hợp cho vay đã thu tiền lãi của người vay nhưng
chưa thu tiền gốc thì số tiền thu lợi bất chính được xác định như thế nào, hiện
nay trong thực tiễn vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Hiện có 02 quan
điểm:
Quan điểm 1: Trường hợp bên vay đã thu được tiền lãi nhưng chưa thu
được tiền gốc thì số tiền lãi vượt quá số tiền lãi mà pháp luật cho phép sẽ
được tính là số tiền thu lợi bất chính mà không phải trừ đi số tiền gốc.
Quan điểm 2: Trường hợp bên vay đã thu được tiền lãi nhưng chưa thu
được tiền gốc thì số tiền lãi vượt quá được tính là số tiền thu lợi bất chính
khi đã trừ đi số nợ gốc, nếu số tiền lãi vượt quá ít hơn số nợ gốc chưa trả thì
không được coi là có thu lợi bất chính.
Ví dụ điển hình cho quan điểm 1: Bản án số:
55/2020/HS-ST ngày 29/4/2020 về “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”
của Tòa án nhân dân huyện Đức Tr, tỉnh Lâm Đồng. Theo nội dung vụ án thì Ông
Nguyễn Minh H cho ông Vi Tiến Dũng vay số tiền 10.000.000 theo hình thức vay
góp, mỗi ngày trả 300.000 đồng trong vòng 40 ngày. H đã thu được 23 ngày với số
tiền 6.900.000 đồng (số tiền lãi hợp pháp là 126.500 đồng, số tiền thu lợi bất
chính là 1.023.500 đồng). Dũng còn nợ H số tiền lãi và gốc là 5.100.000 đồng. Trong
vụ án này, Tòa án nhân dân huyện Đức Tr, tỉnh Lâm Đồng nhận định, số tiền thu
lợi bất chính là 1.023.500 mặc dù Dũng chưa trả được số tiền gốc cho H thì số
tiền đó cũng được coi là số tiền thu lợi bất chính.
Ví dụ điển hình cho quan điểm 2: Bản án số:
22/2020/HS-ST ngày 11/3/2020 về “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”
của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Theo nội dung bản án thì
khoảng tháng 3/2020, Q thỏa thuận cho bà Y vay 20.000.000 đồng, trả góp mỗi
ngày 1.000.000 trong thời hạn 25 ngày. Q quy định thu phí vay 10% tương ứng
2.000.000 đồng, thu trước tiền góp 01 ngày là 1.000.000 đồng. Sau đó Q chuyển
giao số tiền thực tế cho bà Y vay là 17.000.000 đồng, bà Y còn trả góp 24 ngày.
Tổng số tiền bà Y phải trả cho Q là 25.000.000 đồng, Q thu lợi 7.000.000 đồng
tương ứng lãi suất cho vay là 504%/năm, gấp 25,2 lần mức lãi suất cao nhất được
quy định trong giao dịch dân sự.
Đến tháng 8/2020, bà Y tiếp tục vay của Q số tiền 20.000.000
đồng, trả góp mỗi ngày 1.000.000 đồng trong thời hạn 25 ngày. Hình thức vay và
lãi suất như lần trước. Sau đó Q chuyển giao số tiền thực tế cho bà Y vay là
17.000.000 đồng, bà Y còn trả góp 24 ngày Tuy nhiên, bà Y mới góp được 07 ngày
với số tiền 7.000.000 đồng. Trong lần cho vay này Q chưa có lãi, không thu lợi
bất chính. Bà Y còn nợ 10.000.000 đồng tiền gốc.
Trong Bản án số: 02/2020/HS-ST ngày 12/01/2020, Tòa án nhân dân
huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai cho rằng số tiền Q đã trả không đủ số tiền gốc mà
Q cho bà Y vay nên chưa phát sinh số tiền thu lợi bất chính.
Từ hai bản án trên ta thấy, Tòa án có cách xử lý khác nhau trong
trường hợp bên cho vay đã thu tiền lãi của người vay nhưng chưa thu hết tiền
gốc. Theo tác giả, trường hợp bên vay đã thu được tiền lãi nhưng chưa thu được
hết tiền gốc thì số tiền lãi vượt quá cũng được tính là số tiền thu lợi bất
chính, không cần phải trừ đi hết số tiền gốc mới được tính là thu lợi bất
chính, bởi lẻ, hình thức vay mà hai bên thỏa thuận là hình thức vay trả góp,
sau mỗi lần trả thì đã trả một phần gốc và một phần lãi tức là đã phát sinh lãi
(phát sinh thu lợi bất chính), do đó mặc dù chưa trả hết số tiền gốc nhưng người
vay đã thu lợi bất chính rồi.
Hai là, khó khăn trong việc áp dung quy định về tình tiết “Đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi cho vay lãi nặng mà còn vi phạm”.
Theo quy định tại Điều 468 BLDS năm 2015, “lãi suất vay do
các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất
theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác”. Nếu lãi suất vượt quá lãi suất giới hạn nêu
trên thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực và tùy theo tính chất và mức
độ vi phạm sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự. Hiện nay việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi này chưa có quy
định cụ thể, chỉ duy nhất Nghị định số 144/2021/NĐ-CP quy định phạt tiền từ 10.000.000
đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi “Kinh doanh dịch vụ cầm cố cho vay
tiền có cầm cố tài sản nhưng lãi suất cho vay vượt quá tỷ lệ lãi suất theo quy
định của Bộ luật dân sự”. Ta thấy Nghị định số 144/2021/NĐ-CP chỉ quy định
xử phạt đối với hành vi cho vay tiền có cầm cố tài sản chứ không quy định xử
phạt hành chính đối với hành vi cho vay tiền không cầm cố tài sản. Trong khi
đó, hình thức cho vay phổ biến hiện nay là vay tín chấp, gói vay có giá trị
thấp dẫn đến việc cho vay tiền không cầm cố tài sản không xử phạt vi phạm hành
chính được, dẫn đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi cho vay
lãi nặng nhưng trước đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cho vay lãi
nặng trong giai đoạn hiện nay hầu như không có căn cứ xử lý. Mặt khác, các đối
tượng cho vay lãi nặng thường không ký hợp đồng cho vay hoặc hợp đồng cấm cố,
thế chấp tài sản mà thể hiện dưới hình thức tín chấp hoặc dưới dạng hợp đồng
mua bán tài sản để che giấu giao dịch cầm cố, thế chấp, sau đó ký tiếp hợp đồng
cho mượn, cho thuê (giao dịch giả cách) hẹn đến hạn sẽ trả lại cho bên cho vay
tài sản, khi người vay không đủ khả năng trả lãi thì bên cho vay đòi lại tài
sản, điều này gây khó khăn cho việc xử lý hình sự hoặc xử lý hành chính khi mà
bên vay không cung cấp được các giấy tờ chứng minh có việc trả lãi hàng tháng
hay giấy tờ chứng minh hợp đồng mua bán tài sản là giao dịch giả tạo nhằm che
giấu hợp đồng vay tài sản có thế chấp, nên không đủ căn cứ để khởi tố.
Những tiến bộ trong việc xây dựng hệ thống pháp luật hình sự của
nước ta trong những năm vừa qua đã giúp cho hệ thống pháp luật hình sự không
ngừng lớn mạnh và công tác điều tra, xử lý tội phạm hiệu quả hơn. Tuy nhiên
những biến động về kinh tế, xã hội cộng với xu hướng toàn cầu hóa cho thấy hệ
thống pháp luật về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự cần thiết được
bổ sung những mảng còn thiếu và sửa đổi cho phù hợp.
3. Ví dụ về vụ việc cho vãy lãi nặng
Cho vay mức
tiền là 30 triệu đồng và lãi hàng tháng là 4 triệu đồng.
Thứ nhất, về
mức lãi suất cho vay.
Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về lãi suất vay như sau:
''1.
Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường
hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được
vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy
định khác…
Trường
hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản
này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.”
Như vậy, trường hợp của bạn lãi suất do các bên thỏa
thuận và không được vượt quá: 20%/ năm của khoản tiền vay
Lãi suất cho vay tối đa trung bình một tháng sẽ là:
20% : 12 tháng = 1,666%/tháng
Nếu vay nợ 30 triệu với mức lãi là 4 triệu như vậy là
không đúng, Với quy định về lãi suất cho vay tối đa trung bình một tháng là
1,666% như trên, thì mức lãi phải chịu chỉ là : 30,000,000 x 1,666% = 499,800 đ
/ tháng.
Cho nên chủ nợ đến đòi lãi tận 4 triệu/ tháng là trái
pháp luật.
Kể cả 2 bên cho vay và bên vay có thỏa thuận trước về
mức lãi, những cũng không được vượt quá 20% khoản tiền cho vay/ năm, tính ra
không quá 1,666% /tháng.
Lãi 4 triệu trên tổng số tiền vay là 30 triệu, tính ra
là 13,33%/ tháng, tăng gấp 8 lần, đây là mức lãi quá cao so với quy định pháp
luật.
Thứ hai, quy
định của bộ luật hình sự
Theo quy định Điều 201 Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về tội cho vay lãi nặng trong giao
dịch dân sự như sau:
''1.
Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi
suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000
đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi
này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị
phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam
giữ đến 03 năm.
2.
Phạm tội thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ
200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
3.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng,
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến
05 năm.''
Lãi suất suất cao nhất mà pháp luật quy định trên
tháng là: 5 lần x 1,666% = 8,33% (mức lãi suất bạn áp dụng cho vay là
4%/tháng).
Như vậy, khi
mức lãi suất cao hơn lãi suất cao nhất pháp luật quy định 5 lần trở lên thì cầu
thành tội cho vay nặng lãi theo pháp luật hình sự.
Nguồn: Internet.
Tham khảo: NGHỊ QUYẾT 01/2021/NQ-HĐTP, ngày 20 tháng 12 năm 2021 HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG ĐIỀU 201 CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ VIỆC XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ.
0 comments:
Đăng nhận xét