1. Cấu trúc mạng 2G GSM
Mạng
GSM gồm có 3 thành phần, đó là trạm di động (ME+Sim) cung cấp khả năng liên
lạc, hệ thống trạm gốc (BSC, BTS) điều
khiển kết nối vô tuyến với trạm di động và hệ thống chuyển mạch (SS) có chức
năng thực hiện chuyển mạch các cuộc gọi giữa các thuê bao di động.
Đọc thêm: Sự khác biệt giữa các loại mạng di động 2G, 3G, 4G, 5G – Lịch sử hình thành và phát triển
Cấu trúc của mạng GSM có thể được chia
thành ba phần. Trạm di động (Mobile Station) được người thuê bao mang theo. Hệ thống
trạm gốc ( Base Station Subsystem) điều khiển kết nối vô tuyến với trạm di
động. Hệ thống mạng (Network Subsystem), với bộ phận chính là Trung tâm chuyển
mạch dịch vụ di động (MSC), thực hiện việc chuyển mạch cuộc gọi giữa các thuê
bao di động và giữa các thuê bao di động với thuê bao của mạng cố định. MSC
cũng thực hiện các chức năng quản lý di động. Ở đây không vẽ trung tâm vận hành
bảo dưỡng (OMC) với chức năng đảm bảo vận hành và thiết lập mạng. Trạm di động
và hệ thống trạm gốc giao tiếp thông qua giao diện Um, còn được gọi là giao
diện không gian hoặc kết nối vô tuyến. Hệ thống trạm gốc giao tiếp với MSC qua
giao diện A.
Trạm di động
(MS) bao gồm điện thoại di động và một thẻ thông minh xác thực thuê bao (SIM).
SIM cung cấp khả năng di động cá nhân, vì thế người sử dụng có thể lắp SIM vào
bất cứ máy điện thoại di động GSM nào truy nhập vào dịch vụ đã đăng ký. Mỗi
điện thoại di động được phân biệt bởi một số nhận dạng điện thoại di động IMEI (International
Mobile Equipment Identity). Card SIM chứa một số nhận dạng thuê bao di động IMSI (International
Subcriber Identity) để hệ thống nhận dạng thuê bao, một mật mã để xác thực và các
thông tin khác. IMEI và IMSI hoàn toàn độc lập với nhau để đảm bảo tính di động
cá nhân. Card SIM có thể chống việc sử dụng trái phép bằng mật khẩu hoặc số nhận
dạng cá nhân (PIN). Hệ thống trạm gốc gồm có hai phần Trạm thu phát
gốc (BTS) và Trạm điều khiển gốc (BSC). Hai phần này giao tiếp với nhau qua
giao diện Abis, cho phép các thiết bị của các nhà cung cấp khác nhau có thể
"bắt tay" nhau được.
Trạm thu phát
gốc có bộ thu phát vô tuyến xác định một ô (cell) và thiết lập giao thức kết
nối vô tuyến với trạm di động. Trong một khu đô thị lớn thì số lượng BTS cần
lắp đặt sẽ rất lớn. Vì thế, yêu cầu đối với trạm BTS là chắc chắn, ổn đinh, có
thể di chuyển được và giá thành tối thiểu.
Trạm điều
khiển gốc quản lý tài nguyên vô tuyến cho một hoặc vài trạm BTS. Nó thực hiện
thiết lập kênh vô tuyến, phân bổ tần số, và chuyển vùng. BSC là kết nối giữa
trạm di động và tổng đài chuyển mạch di động MSC.
Thành phần
trung tâm của hệ thống mạng là tổng đài
chuyển mạch di động MSC. Nó hoạt động giống như một tổng đài chuyển mạch PSTN
hoặc ISDN thông thường, và cung cấp tất cả các chức năng cần thiết cho một thuê
bao di động như: đăng ký, xác thực, cập nhật vị trí, chuyển vùng, định tuyến
cuộc gọi tới một thuê bao roaming (chuyển vùng). MSC cung cấp kết nối đến mạng
cố định ( PSTN hoặc ISDN). Báo hiệu giữa các thành phần chức năng trong hệ thống mạng sử dụng Hệ thống báo hiệu số 7 (SS7).
Bộ ghi địa chỉ
thường trú (HLR) và Bộ ghi địa chỉ tạm trú (VLR) cùng với tổng đài chuyển mạch
di động MSC cung cấp khả năng định tuyến cuộc gọi và roaming cho GSM. HLR bao
gồm tất cả các thông tin quản trị cho các thuê bao đã được đăng ký của mạng
GSM, cùng với vị trí hiện tại của thuê bao. Vị trí của thuê bao thường dưới
dạng địa chỉ báo hiệu của VLR tương ứng với trạm di động. Chỉ có một HLR logic
cho toàn bộ mạng GSM mặc dù nó có thể được triển khai dưới dạng cơ sở dữ liệu
phân bố.
Bộ ghi địa chỉ
tạm trú (VLR) bao gồm các thông tin quản trị được lựa chọn từ HLR, cần thiết
cho điều khiển cuộc gọi và cung cấp dịch vụ thuê bao, cho các di động hiện đang
ở vị trí mà nó quản lý. Mặc dầu các chức năng này có thể được triển khai ở các
thiết bị độc lập nhưng tất cả các nhà sản xuất tổng đài đều kết hợp VLR vào
MSC, vì thể việc điều khiển vùng địa lý của MSC tương ứng với của VLR nên đơn
giản được báo hiệu. Chú ý rằng MSC không chứa thông tin về trạm di động cụ thể-
thông tin này được chứa ở bộ ghi địa chỉ..
Có hai bộ ghi
khác được sử dụng cho mục đính xác thực và an ninh. Bộ ghi nhận dạng thiết bị (EIR) là một cơ sở dữ liệu chứa
một danh sách của tất cả các máy điện di dộng hợp lệ trên mạng với mỗi máy điện
thoại được phân biệt bởi số IMEI. Một IMEI bị đánh dấu là không hợp lệ nếu nó
được báo là bị mất cắp hoặc có kiểu không tương thích. Trung tâm xác thực (AuC)
là một cơ sở dữ liệu bảo vệ chứa bản sao các khoá bảo mật của mỗi card SIM,
được dùng để xác thực và mã hoá trên kênh vô tuyến.
Chức năng xử lý cuộc gọi của MSC
(1): Khi chủ gọi
quay số thuê bao di động bị gọi, số mạng dịch vụ số liên kết của thuê bao di động,
sẽ có hai trường hợp xảy ra :
·
(1.a) – Nếu cuộc gọi khởi đầu từ mạng cố định
PSTN thì tổng đài sau khi phân tích số thoại sẽ biết đây là cuộc gọi cho một
thuê bao di động. Cuộc gọi sẽ được định tuyến đến tổng đài cổng GMSC gần nhất.
·
(1.b) – Nếu cuộc gọi khởi đầu từ trạm di động,
MSC phụ trách ô mà trạm di động trực thuộc sẽ nhận được bản tin thiết lập cuộc
gọi từ MS thông qua BTS có chứa số thoại của thuê bao di động bị gọi.
(2): MSC (hay
GMSC) sẽ phân tích số MSISDN (The Mobile Station ISDN) của thuê bao bị gọi để
tìm ra HLR nơi MS đăng ký.
(3): MSC (hay
GMSC) sẽ hỏi HLR thông tin để có thể định tuyến đến MSC/VLR quản lý MS.
(4): HLR sẽ trả
lời, khi đó MSC (hay GMSC) này có thể định tuyến lại cuộc gọi đến MSC cần thiết.
Khi cuộc gọi đến MSC này, VLR sẽ biết chi tiết hơn về vị trí của MS. Như vậy có
thể nối thông một cuộc gọi ở mạng GSM, đó là chức năng xử lý cuộc gọi của MSC.
Để kết nối MSC với
một số mạng khác cần phải thích ứng các đặc điểm truyền dẫn của mạng GSM với
các mạng này. Các thích ứng này gọi là chức năng tương tác IWF (Inter
Networking Function). IWF bao gồm một thiết bị để thích ứng giao thức và truyền
dẫn. IWF có thể thực hiện trong cùng chức năng MSC hay có thể ở thiết bị riêng,
ở trường hợp hai giao tiếp giữa MSC và IWF được để mở.
Bộ ghi định vị thường trú (HLR - Home
Location Register):
HLR là cơ sở dữ
liệu tham chiếu lưu giữ lâu dài các thông tin về thuê bao, các thông tin liên
quan tới việc cung cấp các dịch vụ viễn thông. HLR không phụ thuộc vào vị trí
hiện thời của thuê bao và chứa các thông tin về vị trí hiện thời của thuê bao.
HLR bao gồm:
·
Các số nhận dạng: IMSI, MSISDN.
·
Các thông tin về thuê bao.
·
Danh sách các dịch vụ mà MS được sử dụng và bị hạn
chế.
·
Số hiệu VLR đang phục vụ MS.
Bộ ghi định vị tạm trú (VLR - Visitor
Location Register):
VLR là một cơ sở
dữ liệu chứa thông tin về tất cả các MS hiện đang ở vùng phục vụ của MSC. Mỗi
MSC có một VLR, thường thiết kế VLR ngay trong MSC. Ngay cả khi MS lưu động vào
một vùng MSC mới. VLR liên kết với MSC sẽ yêu cầu số liệu về MS từ HLR. Đồng thời
HLR sẽ được thông báo rằng MS đang ở vùng MSC nào. Nếu sau đó MS muốn thực hiện
một cuộc gọi, VLR sẽ có tất cả các thông tin cần thiết để thiết lập một cuộc gọi
mà không cần hỏi HLR, có thể coi VLR như một HLR phân bố. VLR chứa thông tin
chính xác hơn về vị trí MS ở vùng MSC. Nhưng khi thuê bao tắt máy hay rời khỏi
vùng phục vụ của MSC thì các số liệu liên quan tới nó cũng hết giá trị.
Hay nói cách
khác, VLR là cơ sở dữ liệu trung gian lưu trữ tạm thời thông tin về thuê bao
trong vùng phục vụ MSC/VLR được tham chiếu từ cơ sở dữ liệu HLR.
VLR bao gồm:
·
Các số nhận dạng: IMSI, MSISDN, TMSI.
·
Số hiệu nhận dạng vùng định vị đang phục vụ MS.
·
Danh sách các dịch vụ mà MS được và bị hạn chế sử
dụng.
·
Trạng thái của MS ( bận: busy; rỗi: idle).
Tham khảo: tại đây.
2. Cấu trúc mạng 3G UMTS
Mạng thông tin
di động (TTDĐ) 3G lúc đầu sẽ là mạng kết hợp giữa các vùng chuyển mạch gói (PS)
và chuyển mạch kênh (CS) để truyền số liệu gói và tiếng. Các trung tâm chuyển
mạch gói sẽ là các chuyển mạch sử dụng công nghệ ATM. Trên đường phát triển đến
mạng toàn IP, chuyển mạch kênh sẽ dần được thay thế bằng chuyển mạch gói. Các
dịch vụ kể cả số liệu lẫn thời gian thực (như tiếng và video) cuối cùng sẽ được
truyền trên cùng một môi trường IP bằng các chuyển mạch gói. Hình dưới đây cho
thấy thí dụ về một kiến trúc tổng quát của TTDĐ 3G kết hợp cả CS và PS trong
mạng lõi.
RAN:
Radio Access Network: mạng truy nhập vô tuyến
BTS:
Base Transceiver Station: trạm thu phát gốc
BSC:
Base Station Controller: bộ điều khiển trạm gốc
RNC:
Rado Network Controller: bộ điều khiển trạm gốc
CS:
Circuit Switch: chuyển mạch kênh
PS:
Packet Switch: chuyển mạch gói
SMS:
Short Message Servive: dịch vụ nhắn tin
Server: máy chủ
PSTN:
Public Switched Telephone Network: mạng điện thoại chuyển mạch công cộng
PLMN:
Public Land Mobile Network: mang di động công cộng mặt đất
Các
miền chuyển mạch kênh (CS) và chuyển mạch gói (PS) được thể hiện bằng một nhóm
các đơn vị chức năng lôgic: trong thực hiện thực tế các miền chức năng này được
đặt vào các thiết bị và các nút vật lý. Chẳng hạn có thể thực hiện chức năng chuyển
mạch kênh CS (MSC/GMSC) và chức năng chuyển mạch gói (SGSN/GGSN) trong một nút
duy nhất để được một hệ thống tích hợp cho phép chuyển mạch và truyền dẫn các
kiểu phương tiện khác nhau: từ lưu lượng tiếng đến lưu lượng số liệu dung lượng
lớn.
3G
UMTS (Universal Mobile Telecommunications System: Hệ thống thông tin di động
toàn cầu) có thể sử dụng hai kiểu RAN. Kiểu thứ nhất sử dụng công nghệ đa truy
nhập WCDMA (Wide Band Code Devision Multiple Acces: đa truy nhập phân chia theo
mã băng rộng) được gọi là UTRAN (UMTS Terrestrial Radio Network: mạng truy nhập
vô tuyến mặt đất của UMTS). Kiểu thứ hai sử dụng công nghệ đa truy nhập TDMA được
gọi là GERAN (GSM EDGE Radio Access Network: mạng truy nhập vô tuyến dưa trên
công nghệ EDGE của GSM). Tài liệu chỉ xét đề cập đến công nghệ duy nhất trong
đó UMTS được gọi là 3G WCDMA UMTS
2.1. Chuyển mạch kênh (cs), chuyển mạch gói (ps), dịch vụ chuyển mạch kênh và dịch vụ chuyển mạch gói.
3G
cung cấp các dịch vụ chuyển mạch kênh như tiếng, video và các dịch vụ
chuyển mạch gói chủ yếu
để truy nhập internet.
Chuyển mạch kênh (CS: Circuit Switch) là sơ đồ chuyển mạch trong đó thiết bị
chuyển mạch thực hiện các cuộc truyền tin bằng cách thiết lập kết nối chiếm một
tài nguyên mạng nhất định trong toàn bộ cuộc truyền tin. Kết nối này là tạm thời,
liên tục và dành riêng. Tạm thời vì nó chỉ được duy trì trong thời gian cuộc gọi.
Liên tục vì nó được cung cấp liên tục một tài nguyên nhất định (băng thông hay
dung lượng và công suất) trong suốt thời gian cuộc gọi. Dành riêng vì kết nối
này và tài nguyên chỉ dành riêng cho cuộc gọi này. Thiết bị chuyển mạch sử dụng
cho CS trong các tổng đài của TTDĐ 2G thực hiện chuyển mạch kênh trên trên cơ sở
ghép kênh theo thời gian trong đó mỗi kênh có tốc độ 64 kbps và vì thế phù hợp
cho việc truyền các ứng dụng làm việc tại tốc độ cố định 64 kbps (chẳng hạn tiếng
được mã hoá PCM).
Chuyển mạch gói (PS: Packet Switch) là sơ đồ chuyển mạch thực hiện phân chia
số liệu của một kết nối thành các gói có độ dài nhất định và chuyển mạch các
gói này theo thông tin về nơi nhận được gắn với từng gói và ở PS tài nguyên mạng
chỉ bị chiếm dụng khi có gói cần truyền. Chuyển mạch gói cho phép nhóm tất cả
các số liệu của nhiều kết nối khác nhau phụ thuộc vào nội dung, kiểu hay cấu
trúc số liệu thành các gói có kích thước phù hợp và truyền chúng trên một kênh
chia sẻ. Việc nhóm các số liệu cần truyền được thực hiện bằng ghép kênh thống
kê với ấn định tài nguyên động. Các công nghệ sử dụng cho chuyển mạch gói có thể
là Frame Relay, ATM hoặc IP.
Dịch vụ chuyển mạch kênh (CS Service) là dịch vụ trong đó mỗi đầu cuối được cấp
phát một kênh riêng và nó toàn quyển sử dụng tài nguyên của kênh này trong thời
gian cuộc gọi tuy nhiên phải trả tiền cho toàn bộ thời gian này dù có truyền
tin hay không. Dịch vụ chuyển mạch kênh có thể được thực hiện trên chuyển mạch
kênh (CS) hoặc chuyển mạch gói (PS). Thông thường dịch vụ này được áp dụng cho
các dịch vụ thời gian thực (thoại).
Dịch vụ chuyển mạch gói (PS Service) là dịch vụ trong đó nhiều đầu cuối cùng
chia sẻ một kênh và mỗi đầu cuối chỉ chiếm dụng tài nguyên của kênh này khi có thông
tin cần truyền và nó chỉ phải trả tiền theo lượng tin được truyền trên kênh. Dịch
vụ chuyển mạch gói chỉ có thể được thực hiện trên chuyển mạch gói (PS). Dịch vụ
này rất rất phù hợp cho các dịch vụ phi thời gian thực (truyền số liệu), tuy
nhiên nhờ sự phát triển của công nghệ dịch vụ này cũng được áp dụng cho các dịch
vụ thời gian thực (VoIP).
Chuyển
mạch gói có thể thực hiện trên cơ sở ATM hoặc IP.
ATM (Asynchronous Transfer Mode: chế độ
truyền dị bộ) là công nghệ thực hiện
phân chia thông tin cần phát thành các tế bào 53 byte để truyền dẫn và chuyển mạch.
Một tế bào ATM gồm 5 byte tiêu đề (có chứa thông tin định tuyến) và 48 byte tải
tin (chứa số liệu của người sử dụng). Thiết bị chuyển mạch ATM cho phép chuyển mạch
nhanh trên cơ sở chuyển mạch phần cứng tham chuẩn theo thông tin định tuyến tiêu
đề mà không thực hiện phát hiện lỗi trong từng tế bào. Thông tin định tuyến
trong tiêu đề gồm: đường dẫn ảo (VP) và kênh ảo (VC). Điều khiển kết nối bằng
VC (tương ứng với kênh của người sử dụng) và VP (là một bó các VC) cho phép
khai thác và quản lý có khả năng mở rộng và có độ linh hoạt cao. Thông thường
VP được thiết lập trên cơ sở số liệu của hệ thống tại thời điểm xây dựng mạng.
Việc sử dụng ATM trong mạng lõi cho ta nhiều cái lợi: có thể quản lý lưu lượng
kết hợp với RAN, cho phép thực hiện các chức năng CS và PS trong cùng một kiến
trúc và thực hiện khai thác cũng như điều khiển chất lượng liên kết.
Chuyển mạch hay Router IP (Internet Protocol) cũng là một công nghệ thực hiện phân chia thông tin phát thành các gói được gọi là tải tin (Payload). Sau đó mỗi gói được gán một tiêu đề chứa các thông tin địa chỉ cần thiết cho chuyển mạch. Trong thông tin di động do vị trí của đầu cuối di động thay đổi nên cần phải có thêm tiêu đề bổ sung để định tuyến theo vị trí hiện thời của máy di động. Quá trình định tuyến này được gọi là truyền đường hầm (Tunnel). Có hai cơ chế để thực hiện điều này: MIP (Mobile IP: IP di động) và GTP (GPRS Tunnel Protocol: giao thức đường hầm GPRS). Tunnel là một đường truyền mà tại đầu vào của nó gói IP được đóng bao vào một tiêu đề mang địa chỉ nơi nhận (trong trường hợp này là địa chỉ hiện thời của máy di động) và tại đầu ra gói IP được tháo bao bằng cách loại bỏ tiêu đề bọc ngoài.
Hình
dưới cho thấy quá trình định tuyến tunnel (chuyển mạch tunnel) trong hệ thống
3G UMTS từ tổng đài gói cổng (GGSN) cho một máy di động (UE) khi nó chuyển từ
vùng phục vụ của một tổng đài gói nội hạt (SGSN1) này sang một vùng phục vụ của
một tổng đài gói nội hạt khác (SGSN2) thông qua giao thức GTP.
Thiết lập kết
nối tunnel trong chuyển mạch tunnel
Vì
3G WCDMA UMTS được phát triển từ những năm 1999 khi mà ATM là công nghệ chuyển
mạch gói còn ngự trị nên các tiêu chuẩn cũng được xây dựng trên công nghệ này.
Tuy nhiên hiện nay và tương lai mạng viễn thông sẽ được xây dựng trên cơ sở internet
vì thế các chuyển mạch gói sẽ là chuyển mạch hoặc router IP.
2.2. Các loại lưu lượng và dịch vụ được 3GWCDMA UMTS hỗ trợ
Vì
TTDĐ 3G cho phép truyền dẫn nhanh hơn, nên truy nhập Internet và lưu lượng
thông tin số liệu khác sẽ phát triển nhanh. Ngoài ra TTDĐ 3G cũng được sử dụng
cho các dịch vụ tiếng. Nói chung TTDĐ 3G hỗ trợ các dịch vụ tryền thông đa phương
tiện. Vì thế mỗi kiểu lưu lượng cần đảm bảo một mức QoS nhất định tuỳ theo ứng
dụng của dịch vụ. QoS ở W-CDMA được phân loại như sau:
Loại hội thoại (Conversational, rt): Thông tin tương tác yêu cầu trễ nhỏ
(thoại chẳng hạn).
Loại luồng (Streaming, rt): Thông tin một chiều đòi hỏi dịch vụ
luồng với trễ nhỏ (phân phối truyền hình thời gian thực chẳng hạn: Video
Streaming)
Loại tương tác (Interactive, nrt): Đòi hỏi trả lời trong một thời gian
nhất định và tỷ lệ lỗi thấp (trình duyệt Web, truy nhập server chẳng hạn).
Loại nền (Background, nrt): Đòi hỏi các dịch vụ nỗ lực nhất được
thực hiện trên nền cơ sở (e-mail, tải xuống file: Video Download)
Môi
trường hoạt động của 3WCDMA UMTS được chia thành bốn vùng với
các tốc độ bit Rb phục
vụ như sau:
·
Vùng 1: trong nhà, ô pico, Rb <= 2Mbps
·
Vùng 2: thành phố, ô micro, Rb <= 384 kbps
·
Vùng 2: ngoại ô, ô macro, Rb <= 144 kbps
·
Vùng 4: Toàn cầu, Rb = 12,2 kbps
Có
thể tổng kết các dịch vụ do 3GWCDMA UMTS cung cấp ở bản sau:
Kiểu |
Phân loại |
Dịch vụ chi tiết |
Dịch vụ di động |
Dịch vụ di động |
Di động đầu cuối/di
động cá nhân/di động dịch vụ |
Dịch vụ thông tin định vị |
Theo dõi di động/
theo dõi di động thông minh |
|
Dịch vụ viễn thông |
Dịch vụ âm thanh |
- Dịch vụ âm thanh
chất lượng cao (16-64 kbps) - Dịch vụ truyền
thanh AM (32-64 kbps) - Dịch vụ truyền
thanh FM (64-384 kbps) |
Dịch vụ số liệu |
- Dịch vụ số liệu tốc
độ trung bình (64-144 kbps) - Dịch vụ số liệu tốc
độ tương đối cao (144 kbps- 2Mbps) - Dịch vụ số liệu tốc
độ cao (>= 2Mbps) |
|
Dịch vụ đa phương tiện |
- Dịch vụ Video
(384 kbps) - Dịch vụ hình chuyển
động (384kbps- 2 Mbps) - Dịch vụ hình chuyển
động thời gian thực (>= 2
Mbps) |
|
Dịch vụ Internet |
Dịch vụ Internet đơn giản |
Dịch vụ truy nhập
Web (384 kbps-2Mbps) |
Dịch vụ Internet thời gian thực |
Dịch vụ Internet
(384 kbps-2Mbps) |
|
Dịch vụ internet đa phương tiện |
Dịch vụ Website đa
phương tiện thời gian thực (>= 2Mbps) |
3G
WCDMA UMTS được xây dựng theo ba phát hành chính được gọi là R3, R4, R5. Trong
đó mạng lõi R3 và R4 bao gồm hai miền: miền CS (Circuit Switch: chuyển mạch
kênh) và miền PS (Packet Switch: chuyển mạch gói). Việc kết hợp này phù hợp cho
giai đoạn đầu khi PS chưa đáp ứng tốt các dịch vụ thời gian thực như thoại và
hình ảnh. Khi này miền CS sẽ đảm nhiệm các dịch vụ thoại còn số liệu được truyền
trên miền PS. R4 phát triển hơn R3 ở chỗ miền CS chuyển sang chuyển mạch mềm vì
thế toàn bộ mạng truyền tải giữa các nút chuyển mạch đều trên IP. Dưới đây ta
xét ba kiến trúc 3G WCDMA UMTS nói trên.
2.3. Kiến trúc 3G WCDMA UMTS R3
WCDMA
UMTS R3 hỗ trợ cả kết nối chuyển mạch kênh lẫn chuyển mạch gói: đến 384 Mbps
trong miền CS và 2Mbps trong miền PS. Các kết nối tốc độ cao này đảm bảo cung cấp
một tập các dich vụ mới cho người sử dụng di động giống như trong các mạng điện
thoại cố định và Internet. Các dịch vụ này gồm: điện thoại có hình (Hội nghị
video), âm thanh chất lượng cao (CD) và tốc độ truyền cao tại đầu cuối. Một
tính năng khác cũng được đưa ra cùng với GPRS là "luôn luôn kết nối"
đến Internet. UMTS cũng cung cấp thông tin vị trí tốt hơn và vì thế hỗ trợ tốt
hơn các dịch vụ dựa trên vị trí.
Một
mạng UMTS bao gồm ba phần: thiết bị di động (UE: User Equipment), mạng truy nhập
vô tuyến mặt đất UMTS (UTRAN: UMTS Terrestrial Radio Network), mạng lõi (CN:
Core Network) (xem hình 1.8). UE bao gồm ba thiết bị: thiết bị đầu cuối (TE),
thiết bị di động (ME) và module nhận dạng thuê bao UMTS (USIM: UMTS Subscriber
Identity Module). UTRAN gồm các hệ thống mạng vô tuyến (RNS: Radio Network
System) và mỗi RNS bao gồm RNC (Radio Network Controller: bộ điều khiển mạng vô
tuyến) và các nút B nối với nó. Mạng lõi CN bao gồm miền chuyển mạch kênh, chuyển
mạch gói và HE (Home Environment: Môi trường nhà). HE bao gồm các cơ sở dữ liệu:
AuC (Authentication Center: Trung tâm nhận thực), HLR (Home Location Register:
Bộ ghi định vị thường trú) và EIR (Equipment Identity Register:
Bộ ghi nhận dạng thiết bị).
2.3.1. Thiết bị người sử dụng (UE)
UE
(User Equipment: thiết bị người sử dụng) là đầu cuối mạng UMTS của người sử dụng.
Có thể nói đây là phần hệ thống có nhiều thiết bị nhất và sự phát triển của nó
sẽ ảnh hưởng lớn lên các ứng dụng và các dịch vụ khả dụng. Giá thành giảm nhanh
chóng sẽ tạo điều kiện cho người sử dụng mua thiết bị của UMTS. Điều này đạt được
nhờ tiêu chuẩn hóa giao diện vô tuyến và cài đặt mọi trí tuệ tại các card thông
minh.
Các đầu cuối (TE)
Vì
máy đầu cuối bây giờ không chỉ đơn thuần dành cho điện thoại mà còn cung cấp
các dịch vụ số liệu mới, nên tên của nó được chuyển thành đầu cuối. Các nhà sản
xuất chính đã đưa ra rất nhiều đầu cuối dựa trên các khái niệm mới, nhưng trong
thực tế chỉ một số ít là được đưa vào sản xuất. Mặc dù các đầu cuối dự kiến
khác nhau về kích thước và thiết kế, tất cả chúng đều có màn hình lớn và ít
phím hơn so với 2G. Lý do chính là để tăng cường sử dụng đầu cuối cho nhiều dịch
vụ số liệu hơn và vì thế đầu cuối trở thành tổ hợp của máy thoại di động, modem
và máy tính bàn tay.
Đầu
cuối hỗ trợ hai giao diện. Giao diện Uu định nghĩa liên kết vô tuyến (giao diện
WCDMA). Nó đảm nhiệm toàn bộ kết nối vật lý với mạng UMTS. Giao diện thứ hai là
giao diện Cu giữa UMTS IC card (UICC) và đầu cuối. Giao diện này tuân theo tiêu
chuẩn cho các card thông minh.
Mặc
dù các nhà sản xuất đầu cuối có rất nhiều ý tưởng về thiết bị, họ phải tuân theo
một tập tối thiểu các định nghĩa tiêu chuẩn để các người sử dụng bằng các đầu cuối
khác nhau có thể truy nhập đến một số các chức năng cơ sở theo cùng một cách.
Các
tiêu chuẩn này gồm:
·
Bàn phím (các phím vật lý hay các
phím ảo trên màn hình)
·
Đăng ký mật khẩu mới
·
Thay đổi mã PIN
·
Giải chặn PIN/PIN2 (PUK)
·
Trình bầy IMEI
·
Điều khiển cuộc gọi
Các
phần còn lại của giao diện sẽ dành riêng cho nhà thiết kế và người sử dụng sẽ chọn
cho mình đầu cuối dựa trên hai tiêu chuẩn (nếu xu thế 2G còn kéo dài) là thiết
kế và giao diện. Giao diện là kết hợp của kích cỡ và thông tin do màn hình cung
cấp (màn hình nút chạm), các phím và menu.
UICC
UMTS
IC card là một card thông minh. Điều mà ta quan tâm đến nó là dung
lượng nhớ và tốc độ bộ
xử lý do nó cung cấp. Ứng dụng USIM chạy trên UICC.
USIM
Trong
hệ thống GSM, SIM card lưu giữ thông tin cá nhân (đăng ký thuê bao) cài cứng
trên card. Điều này đã thay đổi trong UMTS, Modul nhận dạng thuê bao UMTS được
cài như một ứng dụng trên UICC. Điều này cho phép lưu nhiều ứng dụng hơn và nhiều
chữ ký (khóa) điện tử hơn cùng với USIM cho các mục đích khác (các mã truy nhập
giao dịch ngân hàng an ninh). Ngoài ra có thể có nhiều USIM trên cùng một UICC
để hỗ trợ truy nhập đến nhiều mạng.
USIM
chứa các hàm và số liệu cần để nhận dạng và nhận thực thuê bao trong mạng UMTS.
Nó có thể lưu cả bản sao hồ sơ của thuê bao.
Người
sử dụng phải tự mình nhận thực đối với USIM bằng cách nhập mã PIN. Điểu này đảm
bảo rằng chỉ người sử dụng đích thực mới được truy nhập mạng UMTS. Mạng sẽ chỉ
cung cấp các dịch vụ cho người nào sử dụng đầu cuối dựa trên nhận dạng USIM được
đăng ký.
2.3.2. Mạng truy nhập vô tuyến UMTS
UTRAN
(UMTS Terrestrial Radio Access Network: Mạng truy nhập vô tuyến mặt đất UMTS)
là liên kết giữa người sử dụng và CN. Nó gồm các phần tử đảm bảo các cuộc truyền
thông UMTS trên vô tuyến và điều khiển chúng.
UTRAN
được định nghĩa giữa hai giao diện. Giao diện Iu giữa UTRAN và CN, gồm hai phần:
IuPS cho miền chuyển mạch gói và IuCS cho miền chuyển mạch kênh; giao diện Uu
giữa UTRAN và thiết bị người sử dụng. Giữa hai giao diện này là hai nút, RNC và
nút B.
RNC
RNC
(Radio Network Controller) chịu trách nhiệm cho một hay nhiều trạm gốc và điều
khiển các tài nguyên của chúng. Đây cũng chính là điểm truy nhập dịch vụ mà UTRAN
cung cấp cho CN. Nó được nối đến CN bằng hai kết nối, một cho miền chuyển mạch
gói (đến GPRS) và một đến miền chuyển mạch kênh (MSC).
Một
nhiệm vụ quan trọng nữa của RNC là bảo vệ sự bí mật và toàn vẹn. Sau thủ tục nhận
thực và thỏa thuận khóa, các khoá bảo mật và toàn vẹn được đặt vào RNC. Sau đó
các khóa này được sử dụng bởi các hàm an ninh f8 và f9. RNC có nhiều chức năng
logic tùy thuộc vào việc nó phục vụ nút nào. Người sử dụng được kết nối vào một
RNC phục vụ (SRNC: Serving RNC). Khi người sử dụng chuyển vùng đến một RNC khác
nhưng vẫn kết nối với RNC cũ, một RNC trôi (DRNC: Drift RNC) sẽ cung cấp tài
nguyên vô tuyến cho người sử dụng, nhưng RNC phục vụ vẫn quản lý kết nối của
người sử dụng đến CN. Vai trò logic của SRNC và DRNC được mô tả trên hình dưới.
Khi UE trong chuyển giao mềm giữa các RNC, tồn tại nhiều kết nối qua Iub và có
ít nhất một kết nối qua Iur. Chỉ một trong số các RNC này (SRNC) là đảm bảo
giao diện Iu kết nối với mạng lõi còn các RNC khác (DRNC) chỉ làm nhiệm vụ định
tuyến thông tin giữa các Iub và Iur.
Chức
năng cuối cùng của RNC là RNC điều khiển (CRNC: Control RNC). Mỗi nút
B có một RNC điều khiển chịu trách nhiệm cho các tài nguyên vô tuyến của nó.
Vai
trò logic của SRNC và DRNC
Nút B
Trong
UMTS trạm gốc được gọi là nút B và nhiệm vụ của nó là thực hiện kết
nối vô tuyến vật lý
giữa đầu cuối với nó. Nó nhận tín hiệu trên giao diện Iub từ RNC và chuyển nó
vào tín hiệu vô tuyến trên giao diện Uu. Nó cũng thực hiện một số thao tác quản
lý tài nguyên vô tuyến cơ sở như "điều khiển công suất vòng trong".
Tính năng này để phòng ngừa vấn đề gần xa; nghĩa là nếu tất cả các đầu cuối đều
phát cùng một công suất, thì các đầu cuối gần nút B nhất sẽ che lấp tín hiệu từ
các đầu cuối ở xa. Nút B kiểm tra công suất thu từ các đầu cuối khác nhau và
thông báo cho chúng giảm công suất hoặc tăng công suất sao cho nút B luôn thu
được công suất như nhau từ tất cả các đầu cuối.
2.3.3. Mạng lõi
Mạng
lõi (CN) được chia thành ba phần, miền PS, miền CS và HE. Miền PS đảm bảo các dịch
vụ số liệu cho người sử dụng bằng các kết nối đến Internet và các mạng số liệu
khác và miền CS đảm bảo các dịch vụ điện thoại đến các mạng khác bằng các kết nối
TDM. Các nút B trong CN được kết nối với nhau bằng đường trục của nhà khai
thác, thường sử dụng các công nghệ mạng tốc độ cao như ATM và IP. Mạng đường trục
trong miền CS sử dụng TDM còn trong miền PS sử dụng IP.
SGSN
SGSN
(SGSN: Serving GPRS Support Node: nút hỗ trợ GPRS phục vụ) là nút chính của miền
chuyển mạch gói. Nó nối đến UTRAN thông qua giao diện IuPS và đến GGSN thông
quan giao diện Gn. SGSN chịu trách nhiệm cho tất cả kết nối PS của tất cả các
thuê bao. Nó lưu hai kiểu dữ liệu thuê bao: thông tin đăng ký thuê bao và thông
tin vị trí thuê bao.
Số liệu thuê
bao lưu trong SGSN gồm:
·
IMSI (International Mobile
Subsscriber Identity: số nhận dạng thuê bao di động quốc tế);
·
Các nhận dạng tạm thời gói (P-TMSI:
Packet- Temporary Mobile Subscriber Identity: số nhận dạng thuê bao di động tạm
thời gói);
·
Các địa chỉ PDP (Packet Data
Protocol: Giao thức số liệu gói).
Số liệu vị
trí lưu trên SGSN:
·
Vùng định tuyến thuê bao (RA:
Routing Area);
·
Số VLR;
·
Các địa chỉ GGSN của từng GGSN có kết
nối tích cực;
GGSN
GGSN
(Gateway GPRS Support Node: Nút hỗ trợ GPRS cổng) là một SGSN kết nối với các mạng
số liệu khác. Tất cả các cuộc truyền thông số liệu từ thuê bao đến các mạng
ngoài đều qua GGSN. Cũng như SGSN, nó lưu cả hai kiểu số liệu: thông tin thuê
bao và thông tin vị trí.
Số liệu thuê
bao lưu trong GGSN:
·
IMSI
·
Các địa chỉ PDP
Số liệu vị
trí lưu trong GGSN:
·
Địa chỉ SGSN hiện thuê bao đang nối
đến
·
GGSN nối đến Internet thông qua giao
diện Gi và đến BG thông qua Gp.
BG
BG
(Border Gatway: Cổng biên giới) là một cổng giữa miền PS của PLMN vớicác mạng khác.
Chức năng của nút này giống như tường lửa của Internet: để đảm bảo mạng an ninh
chống lại các tấn công bên ngoài.
VLR
VLR
(Visitor Location Register: bộ ghi định vị tạm trú) là bản sao của HLR cho mạng
phục vụ (SN: Serving Network). Dữ liệu thuê bao cần thiết để cung cấp các dịch
vụ thuê bao được copy từ HLR và lưu ở đây. Cả MSC và SGSN đều có VLR nối với
chúng.
Số liệu sau
đây được lưu trong VLR:
·
IMSI
·
MSISDN
·
TMSI (nếu có)
·
LA hiện thời của thuê bao
·
MSC/SGSN hiện thời mà thuê bao nối đến
Ngoài
ra VLR có thể lưu giữ thông tin về các dịch vụ mà thuê bao được cung cấp. Cả
SGSN và MSC đều được thực hiện trên cùng một nút vật lý với VLR vì thế được gọi
là VLR/SGSN và VLR/MSC.
MSC
MSC
thực hiện các kết nối CS giữa đầu cuối và mạng. Nó thực hiện các chức năng báo
hiệu và chuyển mạch cho các thuê bao trong vùng quản lý của mình. Chức năng của
MSC trong UMTS giống chức năng MSC trong GSM, nhưng nó có nhiều khả năng hơn.
Các kết nối CS được thực hiện trên giao diện CS giữa UTRAN và MSC. Các MSC được
nối đến các mạng ngoài qua GMSC.
GMSC
GMSC
có thể là một trong số các MSC. GMSC chịu trách nhiệm thực hiện các chức năng định
tuyến đến vùng có MS. Khi mạng ngoài tìm cách kết nối đến PLMN của một nhà khai
thác, GMSC nhận yêu cầu thiết lập kết nối và hỏi HLR về MSC hiện thời quản lý
MS.
Môi trường nhà
Môi
trường nhà (HE: Home Environment) lưu các hồ sơ thuê bao của hãng khai thác. Nó
cũng cung cấp cho các mạng phục vụ (SN: Serving Network) các thông tin về thuê
bao và về cước cần thiết để nhận thực người sử dụng và tính cước cho các dịch vụ
cung cấp. Tất cả các dịch vụ được cung cấp và các dịch vụ bị cấm đều được liệt
kê ở đây.
Bộ ghi định vị
thường trú (HLR)
HLR
là một cơ sở dữ liệu có nhiệm vụ quản lý các thuê bao di động. Một mạng di động
có thể chứa nhiều HLR tùy thuộc vào số lượng thuê bao, dung lượng của từng HLR
và tổ chức bên trong mạng.
Cơ
sở dữ liệu này chứa IMSI (International Mobile Subsscriber Identity: số nhận dạng
thuê bao di động quốc tế), ít nhất một MSISDN (Mobile Station ISDN: số thuê bao
có trong danh bạ điện thoại) và ít nhất một địa chỉ PDP (Packet Data Protocol:
Giao thức số liệu gói). Cả IMSI và MSISDN có thể sử dụng làm khoá để truy nhập
đến các thông tin được lưu khác. Để định tuyến và tính cước các cuộc gọi, HLR
còn lưu giữ thông tin về SGSN và VLR nào hiện đang chịu trách nhiệm thuê bao. Các
dịch vụ khác như chuyển hướng cuộc gọi, tốc độ số liệu và thư thoại cũng có trong
danh sách cùng với các hạn chế dịch vụ như các hạn chế chuyển mạng.
HLR
và AuC là hai nút mạng logic, nhưng thường được thực hiện trong cùng một nút vật
lý. HLR lưu giữ mọi thông tin về người sử dụng và đăng ký thuê bao. Như: thông
tin tính cước, các dịch vụ nào được cung cấp và các dịch vụ nào bị từ chối và
thông tin chuyển hướng cuộc gọi. Nhưng thông tin quan trọng nhất là hiện VLR và
SGSN nào đang phụ trách người sử dụng.
Trung tâm nhận
thực (AuC)
AUC
(Authentication Center) lưu giữ toàn bộ số liệu cần thiết để nhận thực, mật mã
hóa và bảo vệ sự toàn vẹn thông tin cho người sử dụng. Nó liên kết với HLR và
được thực hiện cùng với HLR trong cùng một nút vật lý. Tuy nhiên cần đảm bảo rằng
AuC chỉ cung cấp thông tin về các vectơ nhận thực (AV: Authetication Vector) cho
HLR.
AuC
lưu giữ khóa bí mật chia sẻ K cho từng thuê bao cùng với tất cả các hàm tạo
khóa từ f0 đến f5. Nó tạo ra các AV, cả trong thời gian thực khi SGSN/VLR yêu cầu
hay khi tải xử lý thấp, lẫn các AV dự trữ.
Bộ ghi nhận dạng
thiết bị (EIR)
EIR
(Equipment Identity Register) chịu trách nhiệm lưu các số nhận dạng thiết bị di
động quốc tế (IMEI: International Mobile Equipment Identity). Đây là số nhận dạng
duy nhất cho thiết bị đầu cuối. Cơ sở dữ liệu này được chia thành ba danh mục: danh
mục trắng, xám và đen. Danh mục trắng chứa các số IMEI được phép truy nhập mạng.
Danh mục xám chứa IMEI của các đầu cuối đang bị theo dõi còn danh mục đen chứa
các số IMEI của các đầu cuối bị cấm truy nhập mạng. Khi một đầu cuối được thông
báo là bị mất cắp, IMEI của nó sẽ bị đặt vào danh mục đen vì thế nó bị cấm truy
nhập mạng. Danh mục này cũng có thể được sử dụng để cấm các seri máy đặc biệt không
được truy nhập mạng khi chúng không hoạt động theo tiêu chuẩn.
2.3.4. Các mạng ngoài
Các
mạng ngoài không phải là bộ phận của hệ thống UMTS, nhưng chúng cần thiết để đảm
bảo truyền thông giữa các nhà khai thác. Các mạng ngoài có thể là các mạng điện
thoại như: PLMN (Public Land Mobile Network: mạng di động mặt đất công cộng),
PSTN (Public Switched Telephone Network: Mạng điện thoại chuyển mạch công cộng),
ISDN hay các mạng số liệu như Internet. Miền PS kết nối đến các mạng số liệu
còn miền CS nối đến các mạng điện thoại.
2.3.5. Các giao diện
Vai
trò các các nút khác nhau của mạng chỉ được định nghĩa thông qua các giao diện
khác nhau. Các giao diện này được định nghĩa chặt chẽ để các nhà sản xuất có thể
kết nối các phần cứng khác nhau của họ.
+ Giao
diện Cu: Giao diện Cu là giao diện chuẩn cho các card
thông minh. Trong UE đây là nơi kết nối giữa USIM và UE
+ Giao
diện Uu: Giao diện Uu là giao diện vô tuyến của WCDMA
trong UMTS. Đây là giao diện mà qua đó UE truy nhập vào phần cố định của mạng.
Giao diện này nằm giữa nút B và đầu cuối.
+ Giao
diện Iu: Giao diện Iu kết nối UTRAN và CN. Nó gồm hai
phần, IuPS cho miền chuyển mạch gói, IuCS cho miền chuyển mạch kênh. CN có thể
kết nối đến nhiều UTRAN cho cả giao diện IuCS và IuPS. Nhưng một UTRAN chỉ có thể
kết nối đến một điểm truy nhập CN.
+ Giao
diện Iur: Đây là giao diện RNC-RNC.
Ban đầu được thiết kế để đảm bảo chuyển giao mềm giữa các RNC, nhưng trong quá
trình phát triển nhiều tính năng mới được bổ sung. Giao diện này đảm bảo bốn
tính năng nổi bật sau:
·
Di động giữa các RNC
·
Lưu thông kênh riêng
·
Lưu thông kênh chung
·
Quản lý tài nguyên toàn cục
+ Giao diện Iub: Giao diện Iub nối nút B
và RNC. Khác với GSM đây là giao diện mở.
2.4. Kiến trúc 3G WCDMA UMTS R4
Hình dưới đây cho thấy kiến
trúc cơ sở của 3G UMTS R4. Sự khác nhau cơ bản giữa R3 và R4 là ở chỗ khi này mạng
lõi là mạng phân bố và chuyển mạch mềm. Thay cho việc có các MSC chuyển mạch
kênh truyền thống như ở kiến trúc trước, kiến trúc chuyển mạch phân bố và chuyển
mạch mềm được đưa vào.
Về căn bản, MSC được chia
thành MSC server và cổng các phương tiện (MGW: Media Gateway). MSC chứa tất cả
các phần mềm điều khiển cuộc gọi, quản lý di động có ở một MSC tiêu chuẩn. Tuy
nhiên nó không chứa ma trận chuyển mạch. Ma trận chuyển mạch nằm trong MGW được
MSC Server điều khiển và có thể đặt xa MSC Server.
Báo
hiệu điều khiển các cuộc gọi chuyển mạch kênh được thực hiện giữa RNC và MSC
Server. Đường truyền cho các cuộc gọi chuyển mạch kênh được thực hiện giữa RNC
và MGW. Thông thường MGW nhận các cuộc gọi từ RNC và định tuyến các cuộc gọi
này đến nơi nhận trên các đường trục gói. Trong nhiều trường hợp đường trục gói
sử dụng Giao thức truyền
tải thời gian thực (RTP: Real Time Transport
Protocol) trên Giao thức Internet (IP). Từ hình 1.10 ta thấy lưu lượng số liệu
gói từ RNC đi qua SGSN và từ SGSN đến GGSN trên mạng đường trục IP. Cả số liệu
và tiếng đều có thể sử dụng truyền tải IP bên trong mạng lõi. Đây là mạng truyền
tải hoàn toàn IP.
Tại
nơi mà một cuộc gọi cần chuyển đến một mạng khác, PSTN chẳng hạn, sẽ có một cổng
các phương tiện khác (MGW) được điều khiển bởi MSC Server cổng (GMSC server).
MGW này sẽ chuyển tiếng thoại được đóng gói thành PCM tiêu chuẩn để đưa đến
PSTN. Như vậy chuyển đổi mã chỉ cần thực hiện tại điểm này. Để thí dụ, ta giả
thiết rằng nếu tiếng ở giao diện vô tuyến được truyền tại tốc độ 12,2 kbps, thì
tốc độ này chỉ phải chuyển vào 64 kbps ở MGW giao tiếp với PSTN. Truyền tải kiểu
này cho phép tiết kiệm đáng kể độ rộng băng tần nhất là khi các MGW cách xa nhau.
Giao
thức điều khiển giữa MSC Server hoặc GMSC Server với MGW là giao thức ITU
H.248. Giao thức này được ITU và IETF cộng tác phát triển. Nó có tên là điều
khiển cổng các phương tiện (MEGACO: Media Gateway Control). Giao thức điều khiển
cuộc gọi giữa MSC Server và GMSC Server có thể là một giao thức điều khiển cuộc
gọi bất kỳ. 3GPP đề nghị sử dụng (không bắt buộc) giao thức Điều khiển cuộc gọi độc lập vật mang (BICC: Bearer Independent Call
Control) được xây dựng trên cơ
sở khuyến nghị Q.1902 của ITU.
Trong
nhiều trường hợp MSC Server hỗ trợ cả các chức năng của GMSC Server. Ngoài ra
MGW có khả năng giao diện với cả RAN và PSTN. Khi này cuộc gọi đến hoặc từ PSTN
có thể chuyển nội hạt, nhờ vậy có thể tiết kiệm đáng kể đầu tư.
Để
làm thí dụ ta xét trường hợp khi một RNC được đặt tại thành phố A và được điều
khiển bởi một MSC đặt tại thành phố B. Giả sử thuê bao thành phố A thực hiện cuộc
gọi nội hạt. Nếu không có cấu trúc phân bố, cuộc gọi cần chuyển từ thành phố A đến
thành phố B (nơi có MSC) để đấu nối với thuê bao PSTN tại chính thành phố A. Với
cấu trúc phân bố, cuộc gọi có thể được điều khiển tại MSC Server ở thành phố B nhưng
đường truyền các phương tiện thực tế có thể vẫn ở thành phố A, nhờ vậy giảm đáng
kể yêu cầu truyền dẫn và giá thành khai thác mạng.
Từ
hình trên ta cũng thấy rằng HLR cũng có thể được gọi là Server thuê bao tại nhà
(HSS: Home Subscriber Server). HSS và HLR có chức năng tương đương, ngoại trừ
giao diện với HSS là giao diện trên cơ sở truyền tải gói (IP chẳng hạn) trong
khi HLR sử dụng giao diện trên cơ sở báo hiệu số 7. Ngoài ra còn có các giao diện
(không có trên hình vẽ) giữa SGSN với HLR/HSS và giữa GGSN với HLR/HSS.
Rất
nhiều giao thức được sử dụng bên trong mạng lõi là các giao thức trên cơ sở gói
sử dụng hoặc IP hoặc ATM. Tuy nhiên mạng phải giao diện với các mạng truyền thống
qua việc sử dụng các cổng các phương tiện. Ngoài ra mạng cũng phải giao diện với
các mạng SS7 tiêu chuẩn. Giao diện này được thực hiện thông qua cổng SS7 (SS7 GW).
Đây là cổng mà ở một phía nó hỗ trợ truyền tải bản tin SS7 trên đường truyền tải
SS7 tiêu chuẩn, ở phía kia nó truyền tải các bản tin ứng dụng SS7 trên mạng gói
(IP chẳng hạn). Các thực thể như MSC Server, GMSC Server và HSS liên lạc với cổng
SS7 bằng cách sử dụng các giao thức truyền tải được thiết kế đặc biệt để mang
các bản tin SS7 ở mạng IP. Bộ giao thức này được gọi là Sigtran.
2.5. Kiến trúc 3G WCDMA UMTS R5 và R6
Bước
phát triển tiếp theo của UMTS là đưa ra kiến trúc mạng đa phương tiện IP(hình
1.11). Bước phát triển này thể hiện sự thay đổi toàn bộ mô hình cuộc gọi. Ở đây
cả tiếng và số liệu được xử lý giống nhau trên toàn bộ đường truyền từ đầu cuối
của người sử dụng đến nơi nhận cuối cùng. Có thể coi kiến trúc này là sự hội tụ
toàn diện của tiếng và số liệu.
Điểm mới của R5 và R6 là nó đưa ra một
miền mới được gọi là phân hệ đa phương tiện IP (IMS: IP Multimedia Subsystem).
Đây là một miền mạng IP được thiết kế để hỗ trợ các dịch vụ đa phương tiện thời
gian thực IP. Từ hình trên ta thấy tiếng và số liệu không cần các giao diện
cách biệt; chỉ có một giao diện Iu duy nhất mang tất cả phương tiện. Trong mạng
lõi giao diện này kết cuối tại SGSN và không có MGW riêng.
Phân
hệ đa phương tiện IP (IMS) chứa các phần tử sau: Chức năng điều khiển trạng
thái kết nối (CSCF: Connection State Control Function), Chức năng tài nguyên đa
phương tiện (MRF: Multimedia Resource Function), chức năng điều khiển cổng các
phương tiện (MGCF: Media Gateway Control Function), Cổng báo hiệu truyền tải
(T-SGW: Transport Signalling Gateway) và Cổng báo hiệu chuyển mạng (R-SGW:
Roaming Signalling Gateway).
Một
nét quan trọng của kiến trúc toàn IP là thiết bị của người sử dụng được tăng cường
rất nhiều. Nhiều phần mềm được cài đặt ở UE. Trong thực tế, UE hỗ trợ giao thức
khởi đầu phiên (SIP: Session Initiation Protocol). UE trở thành một tác nhân của
người sử dụng SIP. Như vậy, UE có khả năng điều khiển các dịch vụ lớn hơn trước
rất nhiều.
CSCF
quản lý việc thiết lập , duy trì và giải phóng các phiên đa phương tiện đến và
từ người sử dụng. Nó bao gồm các chức năng như: phiên dịch và định tuyến. CSCF
hoạt động như một đại diện Server /hộ tịch viên.
SGSN
và GGSN là các phiên bản tăng cường của các nút được sử dụng ở GPRS và UMTS R3
và R4. Ðiểm khác nhau duy nhất là ở chỗ các nút này không chỉ hỗ trợ dịch vụ số
liệu gói mà cả dịch vụ chuyển mạch kênh (tiếng chẳng hạn). Vì thế cần hỗ trợ các khả năng chất lượng dịch vụ (QoS) hoặc
bên trong SGSN và GGSN hoặc ít nhất ở các Router kết nối trực tiếp với chúng.
Chức
năng tài nguyên đa phương tiện (MRF) là chức năng lập cầu hội nghị được sử dụng
để hỗ trợ các tính năng như tổ chức cuộc gọi nhiều phía và dịch vụ hội nghị.
Cổng
báo hiệu truyền tải (T-SGW) là một cổng báo hiệu SS7 để đảm bảo tương tác SS7 với
các mạng tiêu chuẩn ngoài như PSTN. T-SGW hỗ trợ các giao thức Sigtran.
Cổng
báo hiệu chuyển mạng (R-SGW) là một nút đảm bảo tương tác báo hiệu với các mạng
di động hiện có sử dụng SS7 tiêu chuẩn. Trong nhiều trường hợp T-SGW và R-SGW
cùng tồn tại trên cùng một nền tảng.
MGW
thực hiện tương tác với các mạng ngoài ở mức đường truyền đa phương tiện. MGW ở
kiến trúc mạng của UMTS R5 có chức năng giống như ở R4. MGW được điều khiển bởi
Chức năng cổng điều khiển các phương tiện (MGCF). Giao thức điều khiển giữa các
thực thể này là ITU-T H.248.
MGCF
cũng liên lạc với CSCF. Giao thức được chọn cho giao diện này là SIP. Tuy nhiên
có thể nhiều nhà khai thác vẫn sử dụng nó kết hợp với các miền chuyển mạch kênh
trong R3 và R4. Ðiều này cho phép chuyển đồi dần dần từ các phiên bản R3 và R4
sang R5. Một số các cuộc gọi thoại có thể vẫn sử dụng miền CS một số các dịch vụ
khác chẳng hạn video có thể được thực hiện qua R5 IMS. Cấu hình lai ghép được
thể hiện trên hình sau.
3. Cấu trúc của mạng 4G LTE
Với mục tiêu thiết kế hệ thống toàn IP kiến trúc phẳng hơn nhằm
nâng cao tốc độ dữ liệu, giảm trễ,
LTE được thiết kế chỉ hỗ trợ chuyển mạch gói (PS) mà không hỗ trợ chuyển mạch kênh (CS) như trong các hệ thống
thế hệ trước. Nó cung cấp kết nối
IP giữa thiết bị người dùng (UE) và mạng dữ liệu gói (PDN: Packet Data Network). Thuật ngữ LTE bao hàm mạng truy nhập vô tuyến E-UTRAN,
nó được kết hợp với mạng lõi Evolved Packet Core EPC. LTE và EPC kết hợp tạo thành hệ thống gói Evolved Packet System – EPS.
Mạng
truy cập vô tuyến E-UTRAN
Chỉ
có duy nhất một phần tử trong mạng truy nhập vô tuyến cải tiến E-UTRAN là
eNodeB. Đây là trạm gốc vô tuyến, điều khiển tất cả các chức năng liên quan đến
vô tuyến.
Mạng lõi chuyển mạch gói LTE (EPC)
Thực thể quản lý di động
(MME): Thực thể
quản lý di động (MME) là thành phần điều khiển chính trong EPC. Nó chỉ hoạn động
trong miền điều khiển (CP) mà không tham gia vào miền dữ liệu người dùng (UP).
Các chức năng chính của MME trong kiến trúc hệ thống LTE/SAE như
sau: chức năng xác thực bảo mật, chức năng quản lý di động, chức năng quản lý lịch
sử thuê bao và kế nối dịch vụ.
Gateway phục vụ (S-GW): Trong cấu hình kiến trục
hệ thống cơ bản, chức năng của S-GW là quản lý và chuyển mạch đường hầm dữ liệu
người dùng.
Gateway mạng dữ liệu gói
(P-GW): P-GW hay
còn gọi là PDN-GW là bộ định tuyến biên giữa mạng EPC và các mạng dữ liệu gói
bên ngoài.
Chức năng quy định chính sách
và tính cước (PCRF): PCRF là một thành phần mạng chịu trách nhiệm điều khiển tính cước
và chính sách (PCC).
Máy chủ thuê bao thường trú
(HSS): HSS là
nơi chứa dữ liệu cho tất cả thuê bao. Nó cũng ghi lại vị trí thuê bao như ở mức
MME.
Miền dịch vụ ( Services domain)
Miền dịch vụ có thể bao gồm nhiều hệ thống con và do đó có thể chứa
nhiều nút logic. Dưới đây là các loại dịch vụ có thể cung cấp và loại cơ sở hạ
tầng cần để cung cấp các dịch vụ :
- Các dịch vụ mạng dựa trên IMS;
- Các dịch vụ mạng không dựa trên IMS;
- Những dịch vụ khác không được cung cấp bởi nhà mạng.
3.1. Các kỹ thuật then chốt và đặc điểm chính của LTE
Kỹ
thuật OFDMA hướng xuống
Ý tưởng chính trong kỹ thuật OFDM là việc chia luồng dữ liệu trước
khi phát đi thành N lường dữ liệu song song có tốc độ thấp hơn và phát mỗi lường
dữ liệu đó trên một sóng mang con khác nhau. Các sóng mang này là trực giao với
nhau. OFDM có khả năng thiết lập các kênh bị tán xạ lớn. Sử dung dải tần rất hiệu
quả cho phép chồng phổ giữa các sóng mang con. Hạn chế được ảnh hưởng của
fading và hiệu ứng đường do chia
kênh fading chọn lọc tần số thành các kênh con fading tương ứng với các tần số sóng mang OFDM khác nhau.
SC-FDMA
hướng lên
Lý
do quan trọng nhất để lựa chọn kỹ thuật SC-FDMA cho hướng lên là giảm công suất
tiêu thụ của các thiết bị đầu cuối. Về mặt kỹ thuật, SCFDMA cho tỷ lệ giữa công
suất đỉnh và công suất trung bình (PAPR) thấp hơn OFDMA giúp mang lại hiệu quả
cao cho việc thiết kế các bộ khuếch đại của thiết bị đầu cuối theo đó giảm công
suất tiêu thụ của máy đầu cuối.
Kỹ
thuật MIMO
MIMO
là một phần tất yếu của LTE để đạt được các yêu cầu đầy tham vọng về thông lượng
và hiệu quả sử dụng phổ. MIMO cho phép sử dụng nhiều anten ở máy phát và máy
thu. Với hướng DL, MIMO 2x2 (2 anten ở thiết bị phát, 2 anten ở thiết bị thu)
được xem là cấu hình cơ bản, và MIMO 4x4 cũng được đề cập và đưa vào bảng đặc tả
kỹ thuật chi tiết. Hiệu năng đạt được tùy thuộc vào việc sử dụng MIMO. Trong
đó, kỹ thuật ghép kênh không gian (spatial multiplexing) và phát phân tập (transmit
diversity) là các đặc tính nổi bật của MIMO trong công nghệ LTE.
3.2. Cấu trúc khung dữ liệu LTE (Radio frame)
Cấu
trúc khung dữ liệu trong LTE là giống nhau cho cả hướng xuống và hướng lên. Mỗi
khung dữ liệu có độ dài 10ms (307200xTs, Ts là đơn vị thời gian quy ước) bao gồm
10 khung con (subframe). Mỗi khung con bao gồm 2 khe với 7 symbol OFDM ( trường
hợp sử dụng tiền tố lặp (CPCylic Prefix) ngắn) hoặc 6 symbol OFDM( trường hợp sử
dụng tiền tố lặp dài).
3.3. Băng tần LTE
LTE hỗ trợ nhiều băng tần khác nhau một cách linh hoạt cho phép các
nhà mạng có thể lựa chọn một cách mềm dẻo, tối ưu quỹ tần số và có khả năng tái
sử dụng băng tần của công nghệ cũ khi lưu lượng di chuyển (ví dụ 2G sang 3G) và
tối ưu chi phí đầu tư mạng. Hiện nay các nhà cung cấp viễn thông di động tại Việt
Nam thống nhất chọn băng tần 1800 MHz cho mạng 4G. Tương lai có thể có nhiều
băng tần khác nữa.
3.4. Lưới tài nguyên LTE
Mỗi khe dữ liệu được tổ chức thành các lưới tài nguyên (Resource grid).
Như đã mô tả ở cấu trúc khung dữ liệu, miền thời igan của một lưới tài nguyên
kéo dài đến 6 hoặc 7 symbol OFDM. Miền tần số là tổng số song mang con trong
toàn bộ băng tần hoạt động. Thành phần nhỏ nhất của lưới tài nguyên được gọi là
phần tử tài nguyên ( Resource element). Phần tài nguyên nhỏ nhất có thể được
cáp phát gọi là một khối tài nguyên ( Resource Block).
1Resource Block = 7 (hoặc 6) symbol OFDM x 12 sóng mang con
Như vậy nếu sử dụng CP ngắn thì 1 khối tài nguyên chiếm một dải tần
là 180kHz (12x15kHz – với 15kHz là băng tần cho một sóng mang con).
Hầu hết những giải pháp, thuật toán nhằm nâng cao hiệu năng mạng LTE
và chất lượng dịch vụ xoay quanh việc làm thế nào sử dụng một cách hiệu quả,
linh hoạt lưới tài nguyên.
3.5. Chuyển giao đối với LTE
Hệ thống WCDMA sử dụng chuyển giao mềm cho cả đường lên và đường
xuống. Hệ thống HSPA sử dụng chuyển giao mềm cho đường lên nhưng không sử dụng
cho đường xuống. Ở hệ thống LTE, không sử dụng chuyển giao mềm, chỉ có chuyển
giao cứng, do đó hệ thống trở nên đơn giản hơn.
Trong hệ thống trước, mạng lõi quản lý RNC, RNC quản lý các trạm BS
và BS lại quản lý các UE. Vì thế khi UE chuyển qua vùng RNC khác phục vụ, thì mạng
lõi chỉ biết đến RNC đang phục vụ UE. Mọi chuyển giao được điều khiển bởi RNC
Nhưng đối với E-UTRAN, mạng lõi có thể thấy mọi chuyển giao.
4. Cấu trúc mạng 5G SBA
Có
một điều chắc chắn: Thế giới kết nối của chúng ta đang thay đổi. 5G, với kiến
trúc mạng thế hệ tiếp theo, có tiềm năng hỗ trợ hàng nghìn ứng dụng mới trong cả
phân khúc tiêu dùng và công nghiệp. Khả năng của 5G dường như gần như vô hạn
khi tốc độ và thông lượng cao hơn theo cấp số nhân so với các mạng hiện tại.
Những
khả năng tiên tiến này sẽ cho phép các ứng dụng trên khắp các thị trường dọc
như sản xuất, chăm sóc sức khỏe và giao thông vận tải, nơi 5G sẽ đóng một vai
trò quan trọng trong mọi thứ, từ tự động hóa sản xuất tiên tiến đến các phương
tiện tự hành hoàn toàn. Để phát triển các trường hợp sử dụng và ứng dụng kinh
doanh có lợi cho 5G, ít nhất cần có hiểu biết chung về kiến trúc mạng 5G nằm ở
trung tâm của tất cả các ứng dụng mới này.
5G
đã nhận được một lượng lớn sự chú ý và nhiều hơn một chút cường điệu. Mặc dù tiềm
năng là rất lớn, nhưng điều quan trọng cần biết là ngành công nghiệp này vẫn
đang trong giai đoạn đầu áp dụng. Quá trình triển khai mạng 5G đã bắt đầu từ
nhiều năm trước và liên quan đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng mới, hầu hết được
tài trợ bởi các nhà cung cấp dịch vụ không dây lớn.
Việc
triển khai 5G đầy đủ sẽ mất thời gian, triển khai ở các thành phố lớn trước khi
nó có thể tiếp cận các khu vực ít dân cư hơn. Digi hỗ trợ khách hàng của chúng
tôi trong việc chuẩn bị cho 5G, với thông tin liên lạc về lập kế hoạch di chuyển
và các sản phẩm thế hệ tiếp theo. Mặc dù Digi không tham gia trực tiếp vào việc
phát triển lõi vô tuyến (NR) 5G mới và mạng truy cập vô tuyến 5G (RAN), các thiết
bị của Digi sẽ là một phần không thể thiếu của tầm nhìn 5G và việc sử dụng
chúng trong vô số ứng dụng 5G.
Cấu trúc mạng 5G SBA
Các
tiêu chuẩn 3GPP đằng sau kiến trúc mạng 5G đã được đưa ra bởi Dự án Đối tác Thế
hệ thứ 3 (3GPP), tổ chức phát triển các tiêu chuẩn quốc tế cho tất cả các thông
tin di động. Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU) và các đối tác của nó xác định
các yêu cầu và dòng thời gian cho các hệ thống thông tin di động, xác định một
thế hệ mới khoảng mỗi thập kỷ. 3GPP phát triển các thông số kỹ thuật cho các
yêu cầu đó trong một loạt các bản phát hành.
“G”
trong 5G là viết tắt của “thế hệ”. Kiến trúc công nghệ 5G thể hiện những tiến bộ
đáng kể ngoài công nghệ 4G LTE (sự phát triển lâu dài), ra đời sau 3G và 2G.
Như chúng tôi mô tả trong tài nguyên liên quan của mình, Hành trình đến 5G,
luôn có một khoảng thời gian mà trong đó nhiều thế hệ mạng tồn tại cùng một
lúc. Giống như những người tiền nhiệm của nó, 5G phải cùng tồn tại với các mạng
trước đó vì hai lý do quan trọng:
Một
là, việc phát triển và triển khai các công nghệ mạng mới cần rất nhiều thời
gian, sự đầu tư và hợp tác của các đơn vị và nhà mạng lớn.
Hai
là, những người áp dụng sớm sẽ luôn muốn có được các công nghệ mới càng nhanh
càng tốt, trong khi những người đã đầu tư lớn vào việc triển khai lớn với các
công nghệ mạng hiện có, chẳng hạn như 2G, 3G và 4G LTE, muốn tận dụng những khoản
đầu tư đó cho càng lâu càng tốt, và chắc chắn cho đến khi mạng mới hoàn toàn khả
thi.
Kiến
trúc mạng của công nghệ di động 5G cải thiện rất nhiều so với các kiến trúc trước
đây. Các mạng lớn có mật độ tế bào lớn cho phép những bước nhảy vọt về hiệu suất.
Ngoài ra, kiến trúc của mạng 5G mang lại khả năng bảo mật tốt hơn so với mạng
4G LTE hiện nay.
Tóm
lại, công nghệ 5G mang lại ba lợi thế chính:
+
Tốc độ truyền dữ liệu nhanh hơn, lên đến tốc độ nhiều Gigabit/s.
+
Công suất lớn hơn, cung cấp năng lượng cho một lượng lớn thiết bị IoT trên mỗi
km vuông.
+
Độ trễ thấp hơn, xuống đến mili giây một chữ số, điều này cực kỳ quan trọng
trong các ứng dụng như xe được kết nối trong các ứng dụng ITS và xe tự hành,
nơi cần phản hồi gần như tức thời.
Điều
này có nghĩa là 5G đã hoàn toàn sẵn sàng vào ngày hôm nay? Và nó có nghĩa là kiến
trúc 5G phù hợp với tất cả các ứng dụng? Đọc tiếp để xem công nghệ mới hỗ trợ
các ứng dụng chính như thế nào và ứng dụng nào phù hợp hơn với 4G LTE.
Cân nhắc về Thiết kế và Lập kế hoạch 5G
Việc
cân nhắc thiết kế cho kiến trúc mạng 5G hỗ trợ các ứng dụng đòi hỏi cao rất phức
tạp. Ví dụ, không có phương pháp tiếp cận một kích thước phù hợp với tất cả; phạm
vi ứng dụng yêu cầu dữ liệu để di chuyển khoảng cách, khối lượng dữ liệu lớn hoặc
một số kết hợp. Vì vậy, kiến trúc 5G phải hỗ trợ phổ băng tần thấp, trung bình
và cao - từ các nguồn được cấp phép, chia sẻ và riêng tư - để mang lại tầm nhìn
5G đầy đủ.
Vì
lý do này, 5G được cấu trúc để chạy trên các tần số vô tuyến khác nhau, từ tần
số dưới 1 GHz đến tần số cực cao, được gọi là “sóng milimet” (hoặc mmWave). Tần
số càng thấp, tín hiệu có thể truyền đi xa hơn. Tần số càng cao, nó có thể mang
nhiều dữ liệu hơn.
Có
ba dải tần số ở cốt lõi của mạng 5G:
+
Băng tần cao 5G (mmWave) mang lại tần số cao nhất của 5G. Chúng nằm trong khoảng
từ 24 GHz đến khoảng 100 GHz. Bởi vì tần số cao không thể dễ dàng di chuyển qua
chướng ngại vật, 5G băng tần cao về bản chất là phạm vi ngắn. Hơn nữa, phạm vi
phủ sóng của mmWave bị hạn chế và yêu cầu nhiều cơ sở hạ tầng di động hơn.
+
Băng tần trung 5G hoạt động ở dải tần 2-6 GHz và cung cấp lớp dung lượng cho
các khu vực thành thị và ngoại thành. Dải tần này có tốc độ cao nhất hàng trăm
Mbps.
+
Băng tần thấp của 5G hoạt động dưới 2 GHz và cung cấp phạm vi phủ sóng rộng.
Băng tần này sử dụng phổ tần hiện có và đang được sử dụng cho 4G LTE, về cơ bản
cung cấp kiến trúc LTE 5g cho các thiết bị 5G hiện đã sẵn sàng. Do đó, hiệu suất
của 5G băng tần thấp tương tự như 4G LTE và hỗ trợ sử dụng cho các thiết bị 5G
trên thị trường hiện nay.
Ngoài
tính khả dụng của phổ tần và các yêu cầu về ứng dụng đối với các cân nhắc về
khoảng cách so với băng thông, các nhà khai thác phải xem xét các yêu cầu về
nguồn điện của 5G, vì thiết kế trạm gốc 5G điển hình đòi hỏi gấp đôi lượng điện
năng của một trạm gốc 4G.
Cân nhắc khi lập kế hoạch và triển khai ứng dụng 5G
Các
nhà tích hợp hệ thống, và những người đang phát triển và triển khai các ứng dụng
5G cho các ngành dọc mà chúng ta đã thảo luận, sẽ thấy rằng điều quan trọng là
phải xem xét sự đánh đổi.
Ví
dụ: đây là ví dụ về một số cân nhắc chính:
+
Ứng dụng của bạn sẽ được triển khai ở đâu? Các ứng dụng được tối ưu hóa cho
mmWave sẽ không hoạt động như mong đợi trong các tòa nhà và khi cần mở rộng phạm
vi. Các trường hợp sử dụng tối ưu bao gồm viễn thông di động 5G ở băng tần 24 đến
39 GHz, radar cảnh sát ở băng tần Ka (33.4 - 36.0 GHz), máy quét trong an ninh
sân bay, radar tầm ngắn trong xe quân sự và vũ khí tự động trong hải quân tàu
phát hiện và hạ tên lửa.
+
Loại thông lượng nào sẽ được yêu cầu? Đối với các phương tiện tự hành và các ứng
dụng hệ thống giao thông thông minh (ITS), các thiết bị và kết nối phải được tối
ưu hóa về tốc độ. Giao tiếp gần thời gian thực - được đo bằng phần triệu giây -
rất quan trọng để các phương tiện và thiết bị “đưa ra quyết định” về việc rẽ,
tăng tốc và phanh, và độ trễ thấp nhất có thể là nhiệm vụ quan trọng đối với
các ứng dụng này.
+
Ngược lại, các ứng dụng Video và VR phải được tối ưu hóa cho thông lượng. Các ứng
dụng video như hình ảnh y tế cuối cùng có thể tận dụng tối đa lượng dữ liệu khổng
lồ mà mạng 5G có thể hỗ trợ.
Để 5G mang lại tầm nhìn đầy đủ, cơ sở hạ tầng mạng cũng cần phải phát triển. Sơ đồ sau minh họa sự di chuyển theo thời gian, cũng như các kế hoạch sản phẩm 5G của Digi.
Các
ứng dụng sớm nhất của công nghệ 5G sẽ không chỉ dành riêng cho 5G mà sẽ xuất hiện
trong các ứng dụng nơi kết nối được chia sẻ với 4G LTE hiện có ở chế độ được gọi
là không độc lập (NSA). Khi hoạt động ở chế độ này, trước tiên một thiết bị sẽ
kết nối với mạng 4G LTE và nếu có 5G, thiết bị sẽ có thể sử dụng nó để có thêm
băng thông. Ví dụ: một thiết bị kết nối ở chế độ 5G NSA có thể nhận được 200
Mbps tốc độ đường xuống qua 4G LTE và 600 Mbps khác trên 5G cùng một lúc, với tốc
độ tổng hợp là 800 Mbps.
Khi
ngày càng có nhiều cơ sở hạ tầng mạng 5G trực tuyến trong vài năm tới, nó sẽ
phát triển để kích hoạt chế độ độc lập chỉ dành cho 5G (SA). Điều này sẽ mang lại
độ trễ thấp và khả năng kết nối với số lượng lớn các thiết bị IoT là một trong
những lợi thế chính của 5G.
Mạng lõi
Mạng
lõi 5G, cho phép chức năng nâng cao của mạng 5G, là một trong ba thành phần
chính của Hệ thống 5G, còn được gọi là 5GS. Hai thành phần còn lại là mạng Truy
cập 5G (5G-AN) và Thiết bị người dùng (UE). Lõi 5G sử dụng kiến trúc dựa trên dịch
vụ phù hợp với đám mây (SBA) để hỗ trợ xác thực, bảo mật, quản lý phiên và tổng
hợp lưu lượng từ các thiết bị được kết nối, tất cả đều yêu cầu sự kết nối phức
tạp của các chức năng mạng, như được thể hiện trong sơ đồ lõi 5G.
Các
thành phần của kiến trúc lõi 5G bao gồm:
+
Chức năng mặt phẳng người dùng (UPF)
+
Mạng dữ liệu (DN), ví dụ: dịch vụ của nhà điều hành, truy cập Internet hoặc dịch
vụ của bên thứ 3
+
Chức năng quản lý di động và truy cập cốt lõi (AMF)
+
Chức năng máy chủ xác thực (AUSF)
+
Chức năng quản lý phiên (SMF)
+
Chức năng lựa chọn lát cắt mạng (NSSF)
+
Chức năng phơi sáng mạng (NEF)
+
Chức năng kho lưu trữ NF (NRF)
+
Chức năng Kiểm soát Chính sách (PCF)
+
Quản lý dữ liệu hợp nhất (UDM)
+
Chức năng ứng dụng (AF)
Sơ
đồ kiến trúc mạng 5G dưới đây minh họa cách các thành phần này được liên kết với
nhau.
Sơ đồ kiến trúc 4G
Khi
4G phát triển từ người tiền nhiệm 3G, chỉ có những thay đổi gia tăng nhỏ đối với
kiến trúc mạng. Sơ đồ kiến trúc mạng 4G sau đây cho thấy các thành phần chính của
mạng lõi 4G:
Trong
kiến trúc mạng 4G, Thiết bị Người dùng (UE) như điện thoại thông minh hoặc thiết
bị di động, kết nối qua Mạng truy cập vô tuyến LTE (E-UTRAN) với Lõi gói phát
triển (EPC) và sau đó xa hơn với Mạng bên ngoài, như Internet. NodeB đã phát
triển (eNodeB) tách lưu lượng dữ liệu người dùng (mặt phẳng người dùng) khỏi
lưu lượng dữ liệu quản lý của mạng (mặt phẳng điều khiển) và cung cấp cả hai
nguồn cấp dữ liệu riêng biệt vào EPC.
Sơ đồ kiến trúc 5G
5G
được thiết kế từ đầu và các chức năng mạng được phân chia theo dịch vụ. Đó là
lý do tại sao kiến trúc này còn được gọi là Kiến trúc dựa trên dịch vụ cốt lõi
5G (SBA). Sơ đồ cấu trúc liên kết mạng 5G sau đây cho thấy các thành phần chính
của mạng lõi 5G:
Dưới
đây là cách hoạt động:
+
Thiết bị Người dùng (UE) như điện thoại thông minh 5G hoặc thiết bị di động 5G
kết nối qua Mạng truy cập vô tuyến mới 5G với lõi 5G và xa hơn nữa với Mạng dữ
liệu (DN), như Internet.
+
Chức năng Quản lý Truy cập và Di động (AMF) hoạt động như một điểm vào duy nhất
cho kết nối UE.
+
Dựa trên dịch vụ do UE yêu cầu, AMF chọn Chức năng quản lý phiên tương ứng
(SMF) để quản lý phiên người dùng.
+
Chức năng Mặt phẳng Người dùng (UPF) vận chuyển lưu lượng dữ liệu IP (mặt phẳng
người dùng) giữa Thiết bị Người dùng (UE) và các mạng bên ngoài.
+
Chức năng Máy chủ Xác thực (AUSF) cho phép AMF xác thực UE và truy cập các dịch
vụ của lõi 5G.
+
Các chức năng khác như Chức năng quản lý phiên (SMF), Chức năng kiểm soát chính
sách (PCF), Chức năng ứng dụng (AF) và chức năng Quản lý dữ liệu thống nhất
(UDM) cung cấp khung kiểm soát chính sách, áp dụng các quyết định chính sách và
truy cập thông tin đăng ký, để quản lý hành vi mạng.
Như
bạn có thể thấy, kiến trúc mạng 5G phức tạp hơn ở hậu trường, nhưng sự phức tạp
này là cần thiết để cung cấp dịch vụ tốt hơn có thể được điều chỉnh cho phù hợp
với nhiều trường hợp sử dụng 5G.
Sự khác biệt giữa kiến trúc mạng 4G và 5G
Trong
phần này, chúng ta sẽ thảo luận về kiến trúc 4G và 5G khác nhau như thế nào.
Trong kiến trúc mạng 4G LTE, LTE RAN và eNodeB thường gần nhau, thường ở gốc hoặc
gần tháp di động chạy trên phần cứng chuyên dụng. Mặt khác, EPC nguyên khối thường
tập trung và xa eNodeB hơn. Kiến trúc này làm cho việc giao tiếp từ đầu đến cuối
tốc độ cao, độ trễ thấp trở nên khó khăn đến không thể.
Khi
các cơ quan tiêu chuẩn như 3GPP và các nhà cung cấp cơ sở hạ tầng như Nokia và
Ericsson đã cấu trúc lõi 5G New Radio (5G-NR), họ đã tách rời EPC nguyên khối
và triển khai từng chức năng để nó có thể chạy độc lập với nhau trên các điểm
chung, riêng lẻ phần cứng máy chủ kệ. Điều này cho phép lõi 5G trở thành các
nút 5G phi tập trung và rất linh hoạt. Ví dụ, các chức năng cốt lõi của 5G giờ
đây có thể được đặt cùng vị trí với các ứng dụng trong một trung tâm dữ liệu cạnh,
giúp đường truyền thông tin ngắn và do đó cải thiện độ trễ và tốc độ đầu cuối.
Một
lợi ích khác của các thành phần lõi 5G nhỏ hơn, chuyên biệt hơn này chạy trên
phần cứng thông thường là các mạng hiện có thể được tùy chỉnh thông qua việc
phân chia mạng. Cắt mạng cho phép bạn có nhiều “lát” chức năng hợp lý được tối
ưu hóa cho các trường hợp sử dụng cụ thể, tất cả đều hoạt động trên một lõi vật
lý duy nhất trong cơ sở hạ tầng mạng 5G.
Nhà
khai thác mạng 5G có thể cung cấp một phần được tối ưu hóa cho các ứng dụng
băng thông cao, một phần khác được tối ưu hóa hơn cho độ trễ thấp và phần thứ
ba được tối ưu hóa cho một số lượng lớn các thiết bị IoT. Tùy thuộc vào sự tối
ưu hóa này, một số chức năng cốt lõi của 5G có thể không khả dụng. Ví dụ: nếu bạn
chỉ bảo dưỡng các thiết bị IoT, bạn sẽ không cần chức năng thoại cần thiết cho
điện thoại di động. Và bởi vì không phải mọi lát cắt đều phải có các khả năng
chính xác như nhau, sức mạnh tính toán có sẵn được sử dụng hiệu quả hơn.
Sự phát triển của 5G
Mỗi
thế hệ hoặc “G” của giao tiếp không dây mất khoảng một thập kỷ để trưởng thành.
Việc chuyển đổi từ thế hệ này sang thế hệ tiếp theo chủ yếu do các nhà khai
thác cần tái sử dụng hoặc tái sử dụng số lượng phổ tần hạn chế có sẵn. Mỗi thế
hệ mới có hiệu suất quang phổ cao hơn, giúp truyền dữ liệu nhanh hơn và hiệu quả
hơn qua mạng.
Thế
hệ đầu tiên của giao tiếp không dây, hay 1G, bắt đầu từ những năm 1980 với công
nghệ tương tự. Sau đó nhanh chóng là 2G, thế hệ mạng đầu tiên sử dụng công nghệ
kỹ thuật số. Sự tăng trưởng của 1G và 2G ban đầu được thúc đẩy bởi thị trường
điện thoại di động. 2G cũng cung cấp giao tiếp dữ liệu, nhưng ở tốc độ rất thấp.
Thế
hệ tiếp theo, 3G, bắt đầu phát triển mạnh vào đầu những năm 2000. Sự phát triển
của 3G một lần nữa được thúc đẩy bởi thiết bị cầm tay, nhưng là công nghệ đầu
tiên cung cấp tốc độ dữ liệu trong phạm vi 1 Megabit/giây (Mbps), phù hợp với
nhiều ứng dụng mới cả trên điện thoại thông minh và Internet of Things (IoT) mới
nổi. hệ sinh thái. Thế hệ công nghệ không dây hiện tại của chúng tôi là 4G LTE,
bắt đầu phát triển vào năm 2010.
Điều
quan trọng cần lưu ý là 4G LTE (Long Term Evolution) còn cả một cuộc đời dài
phía trước; nó là một công nghệ rất thành công và trưởng thành và dự kiến sẽ được
sử dụng rộng rãi trong ít nhất một thập kỷ nữa.
Kiến trúc 5G và Đám mây và Cạnh
Hãy nói về điện toán biên trong kiến trúc mạng 5G.
Một
khái niệm nữa giúp phân biệt kiến trúc mạng 5G với người tiền nhiệm 4G là điện
toán biên hoặc tính toán cạnh di động. Trong trường hợp này, bạn có thể đặt các
trung tâm dữ liệu nhỏ ở rìa mạng, gần với vị trí của các tháp di động. Điều đó
rất quan trọng đối với độ trễ rất thấp và đối với các ứng dụng băng thông cao
đang mang cùng một nội dung.
Đối
với một ví dụ về băng thông cao, hãy nghĩ đến các dịch vụ phát trực tuyến
video. Nội dung bắt nguồn từ một máy chủ đặt ở đâu đó trên đám mây. Nếu mọi người
được kết nối với một tháp di động và giả sử, 100 người đang phát trực tuyến một
chương trình truyền hình phổ biến, thì sẽ hiệu quả hơn nếu nội dung đó càng gần
với người tiêu dùng càng tốt, ngay bên cạnh, lý tưởng hơn là trên tháp di động.
Người
dùng truyền trực tuyến nội dung này từ một phương tiện lưu trữ đã sẵn sàng thay
vì phải phát trực tuyến và chuyển thông tin này và xử lý lại nó cho 100 người từ
vị trí trung tâm trên đám mây. Thay vào đó, sử dụng cấu trúc 5G, bạn có thể đưa
nội dung lên tháp chỉ một lần và sau đó phân phối nội dung đó cho 100 người
đăng ký của bạn.
Nguyên
tắc tương tự cũng được áp dụng trong các ứng dụng yêu cầu giao tiếp hai chiều, nơi
cần độ trễ thấp. Nếu người dùng có một ứng dụng đang chạy ở rìa, thì thời gian
quay vòng nhanh hơn nhiều vì dữ liệu không phải truyền qua mạng.
Trong
cấu trúc mạng 5G, các mạng biên này cũng có thể được sử dụng cho các dịch vụ được
cung cấp ở biên. Vì có thể ảo hóa các chức năng cốt lõi 5G này, bạn có thể để
chúng chạy trên phần cứng máy chủ hoặc trung tâm dữ liệu tiêu chuẩn và có cáp
quang chạy tới đài phát tín hiệu. Vì vậy, radio là chuyên biệt, nhưng mọi thứ
khác đều khá chuẩn.
Ngày
nay, 4G LTE vẫn đang phát triển. Nó cung cấp tốc độ tuyệt vời và đủ băng thông
để hỗ trợ hầu hết các ứng dụng IoT hiện nay. Mạng 4G LTE và 5G sẽ cùng tồn tại
trong thập kỷ tới, khi các ứng dụng bắt đầu di chuyển và sau đó mạng 5G và các ứng
dụng cuối cùng sẽ thay thế 4G LTE.
Thiết bị sử dụng 5G
5G
sẽ phát triển theo thời gian và các thiết bị 5G sẽ làm theo. Các sản phẩm ban đầu
sẽ "sẵn sàng 5G", có nghĩa là các sản phẩm này có sức mạnh xử lý và Cổng
Gigabit Ethernet cần thiết để hỗ trợ modem 5G băng thông cao hơn và bộ mở rộng
5G hiện đang có mặt trên thị trường.
Các sản phẩm 5G sau này sẽ được tích hợp trực tiếp modem 5G và có bộ xử lý đa lõi nhanh hơn, giao diện Ethernet 2.5 hoặc thậm chí 10 Gigabit và radio Wi-Fi 6 / 6E. Những thay đổi về sản phẩm này sẽ làm tăng giá thành của các sản phẩm 5G nhưng bắt buộc phải xử lý tốc độ bổ sung và độ trễ thấp hơn mà mạng 5G sẽ cung cấp.
0 comments:
Đăng nhận xét