Hiện nay hệ thống
mạng có dây vẫn là xương sống của thế giới Internet. Một tay tỉ phú có thể chơi
trội sắm hàng trăm router wifi đắt tiền để phủ sóng toàn bộ khuôn viên biệt thự
rộng vài hecta của mình, hay một số thành phố tiên tiến có thể tiến hành phủ
sóng wifi trên toàn bộ khu nội thành, nhưng cuối cùng thì để kết nối với thế giới,
trong đó vẫn phải có một số thiết bị kết nối với dây dẫn của nhà cung cấp mạng
(ISP), công nghệ của chúng ta chưa đạt đến ngưỡng có thể tạo ra hệ thống mạng
không dây toàn cầu. Vì vậy cho dù bạn có thiết kế mạng gia đình để tất cả các
thiết bị đều sử dụng tín hiệu không dây, các kiến thức về mạng có dây vẫn rất cần
thiết.
I. Dây dẫn
Hệ thống dây dẫn
ISP dùng để truyền tải tín hiệu đến cửa nhà bạn có thể không cố định, tùy theo
loại thuê bao mạng của bạn họ sẽ cấp cho các loại dây khác nhau. Với trường hợp
các mạng thuộc nhóm DSL (phổ biến nhất là ADSL & SDSL) thì là dây điện thoại,
dùng qua đường truyền hình cáp thì phần lớn sẽ là cáp đồng trục, còn mạng cáp
quang dĩ nhiên là dùng cáp quang. Nói chung, khi đăng ký dịch vụ mạng thành
công, việc bảo quản và đi dây cho các đường cáp này là trách nhiệm của ISP. Bạn
chỉ cần biết được chủng loại để tìm mua thiết bị chuyển đổi tín hiệu thích hợp
(trường hợp không thích dùng thiết bị chuyển đổi do ISP cung cấp) và để nhỡ một
ngày đẹp trời mạng đứt còn biết đường chạy ra cửa kiểm tra đúng đường dây nhà
mình, kẻo nhà dùng Internet truyền hình cáp mà nhìn thấy dây điện thoại đứt lại
gọi điện lên tổng đài phàn nàn.
Trong phạm vi
gia đình nói riêng và mạng LAN cỡ nhỏ nói chung, phổ biến nhất hiện nay vẫn là
các loại cáp xoắn Ethernet (Twisted Pair Cable). Thực chất thì không phân biệt
được các loại này cũng chẳng sao, nhưng nếu bạn thực sự muốn làm công việc quản
lý mạng trong nhà, tối ưu chất lượng, tốc độ kết nối thì cũng nên bỏ một chút
công sức tìm hiểu.
Đầu tiên cần
phân biệt đầu kết nối RJ145 của cáp xoắn Ethernet và đầu RJ11 của đường dây điện
thoại thường được dùng để cắm vào cổng DSL trên modem. RJ11 nhỏ hơn và ít dây
hơn.
1. Unshielded Twisted Pair (UTP) vs
Shielded Twisted Pair (STP)
Cáp xoắn đôi
thường được bảo vệ để ngăn chặn hiện tượng nhiễu điện từ. Cáp xoắn đôi được che
chắn bởi vỏ chống nhiễu được gọi là cáp xoắn được bảo vệ (STP). Ngược lại với
STP, cặp xoắn đôi không được che chắn bởi vỏ chống nhiễu (UTP) sẽ để trần,
không được bảo vệ.
Cáp xoắn
Ethernet cấu tạo từ 8 sợi dây đồng, được xoắn vào với nhau theo từng cặp tạo
thành 4 cặp dây. Loại có vỏ bọc chống nhiễu (STP) ngoài các lớp cao su bên ngoài
cùng và bên ngoài mỗi sợi riêng lẻ, còn được bổ sung một lớp bọc chống nhiễu
trên từng cặp dây này. Còn như tên gọi, cáp không bọc (UTP) dĩ nhiên là không
có thêm lớp bảo vệ này. Nhờ vào lớp bảo vệ, STP nổi trội hơn ở các mặt như khả
năng chống nhiễu và tác động của môi trường, tín hiệu truyền ổn định hơn trên
khoảng cách xa hơn. Nhưng cũng vì vậy mà STP đắt hơn, nặng hơn, kém linh hoạt
hơn, hiếm gặp hơn, khó tìm mua hơn..v.v..
+ Cáp STP cũng
được chia thành loại có vỏ chống nhiễu chung và vỏ chống nhiễu riêng. Cáp STP với
vỏ chống nhiễu riêng có lá nhôm cho mỗi cặp xoắn hoặc hai cặp xoắn một. Loại vỏ
chống nhiễu này bảo vệ cáp khỏi hiện tượng nhiễu điện từ bên ngoài (EMI) vào hoặc
ra khỏi cáp, và cũng bảo vệ các cặp xoắn lân cận khỏi hiện tượng nhiễu xuyên
âm. Cáp Overall shielded twisted pair (OSTP) có vỏ chống nhiễu chung hoặc vỏ chống
nhiễu riêng trên tất cả các cặp trong cáp xoắn đôi. Loại vỏ chống nhiễu này
giúp ngăn EMI xâm nhập hoặc thoát khỏi cáp. Một cáp STP có thể có cả vỏ chống
nhiễu chung và riêng.
+ Cáp UTP
không có vỏ chống nhiễu dễ bị ảnh hưởng bởi hiện tượng nhiễu từ bên ngoài. Vì
lý do đó, loại cáp này thường được tìm thấy trong các ứng dụng điện thoại trong
nhà. Cáp điện thoại ngoài trời chứa hàng trăm hoặc hàng ngàn cặp. Các cặp có cùng
tốc độ xoắn trong cáp có thể phải chịu một số mức độ nhiễu xuyên âm, vì vậy các
cặp dây này thường được lựa chọn cẩn thận trong một cáp lớn để giảm hiện tượng
nhiễu xuyên âm.
Các hộ gia
đình thường chỉ cần cắm dây UTP vào rồi vứt lăn lóc trên sàn ngồi lướt web,
cùng lắm thì nhét vào góc tường (một số trường hợp sẽ bị ảnh hưởng chất lượng kết
nối do UTP rất dễ bị nhiễu tín hiệu nếu để cần các loại dây có tín hiệu điện
khác). Nhưng cũng đừng vì vậy mà chủ quan, nếu lúc nào đó bạn cần thiết lập một
hệ thống mạng gia đình đòi hỏi phải đưa dây ra ngoài hoặc truyền qua khoảng
cách hơi xa, hoặc đi dây gần các nguồn gây nhiễu như thiết bị điện, lúc đó kiến
thức về STP sẽ cứu bạn một bàn thua trông thấy.
2. Lõi đặc (solid) hoặc Lõi bện (stranded)
Đây là phương
pháp phân biệt theo cấu tạo các sợi dây dẫn đồng của cáp. Dây đồng lõi đặc, như
cái tên mô tả, chỉ gồm một sợi nguyên khối, còn dây lõi bện do nhiều sợi con tạo
này. Nói chung, dây lõi đặc tuy giúp truyền trên khoảng cách xa hơn nhưng rất
kém linh hoạt và dễ bị hỏng nếu bị gấp khúc quá nhiều lần. Tuy vậy nhờ giá
thành rẻ & dễ thao tác bấm cáp hơn nên loại này vẫn phổ biến hơn trên thị
trường, vì vậy bạn cũng nên lưu ý không nên “đàn áp” dây mạng nhà mình quá nếu
chưa chắc chắn rằng đó là dây lõi bện.
3. Cáp thẳng (Straight-through cable) và
Cáp chéo (Crossover cable)
Đừng tưởng cứ
mua dây Ethernet về, nối các sợi trong đó vào đầu chuyển RJ45 theo đúng màu
tương ứng là dùng được hết cho tất cả các trường hợp. Tùy theo cách đấu nối các
sợi từ 1>8 ở 2 đầu cáp Ethernet mà sợi cáp đó sẽ phục vụ các chức năng khác
nhau. Cách nhớ chức năng đấu nối của 2 loại cáp cũng rất đơn giản, ta chia các
thiết bị trong nhà thành 2 nhóm:
Nhóm 1: Router, PC, Server, lap…
Nhóm 2: Switch, Hub và các thiết bị mạng khác
Những thiết bị
cùng nhóm thì nối với nhau bằng cáp chéo, khác loại thì dùng cáp thẳng, vậy
thôi. Tuy nhiên cần lưu ý vài vấn đề với các chú modem. Vốn dĩ ra thì modem
không phải router hay switch hay hub gì cả, ban đầu nó ra đời để phục vụ một
công việc riêng (chúng ta sẽ nói đến ở phần sau). Nhưng nhu cầu quản lý mạng
trong hộ gia đình đâu có cần chuyên môn hóa quá làm gì, thành ra các nhà sản xuất
- đặc biệt là các hãng TQ cứ thể thẳng tay tích hợp đủ thứ chức năng lên đó để
tiện cho người dùng bình dân, định tuyến chuyển mạch rồi thì tường lửa NAT DHCP
đủ cả. Phần lớn hoạt động như một router đơn giản nhưng một số loại cũ rẻ tiền
thực ra lại hoạt động theo kiểu… switch để thêm nhiều cổng cho oai, thành ra ta
phải để mắt một chút khi cắm cáp, tốt nhất là dùng chiếc cáp bán kèm modem.
Cùng một sợi
cáp Ethernet, các bạn có thể biến nó thành cáp thẳng hay cáp chéo tùy theo cách
đấu nối các sợi như sau (cáp thẳng thì hai đầu của cáp cùng một chuẩn, cáp chéo
thì hai đầu của cáp khác chuẩn):
Hoặc nếu như ngại
bấm cáp, cách đơn giản nhất là ra cửa hàng mua từng đoạn cáp ngắn và nhờ họ bấm
cho mỗi loại 1 2 sợi. Bạn thấy thế vẫn lằng nhằng? Hãy yên tâm là phần lớn các
thiết bị hiện nay có chức năng Auto-MIDX giúp nhận biết loại cáp & loại kết
nối để tự thay đổi cho phù hợp, nghĩa là bạn thích cắm thẳng chéo gì cũng được.
Phần kiến thức này chỉ dùng cho những ai có hứng thú tìm hiểu để tối ưu chất lượng
mạng hoặc tạm thời chưa có kinh phí nâng cấp lên thiết bị hỗ trợ Auto-MIDX.
4. Phân biệt cáp theo tốc độ
Nếu như từng
tìm qua về các loại tốc độ cáp Ethernet trên mạng, bạn sẽ thấy nhiều nơi nói tới
5 6 hay tận 7 chuẩn tốc độ cho cáp xoắn Ethernet. Nói chung đây là các cấp trên
lý thuyết, không có tác dụng mấy với người dùng cuối như chúng ta. Hiện ta chỉ
cần biết đến:
·
Cat 5: Là loại cơ bản nhất, cung cấp tốc độ 10
Mbps hoặc 100 Mbps.
·
Cat 5e: Nâng cấp từ Cat 5 để hỗ trợ tốc độ tối
đa 1000 Mbps.
·
Cat 6: Tốc độ lên tới 10Gbs!!!!
Category
3
Cáp Category
3, thường được gọi là Cat 3, là cáp xoắn đôi không có vỏ chống nhiễu
(unshielded twisted pair - UTP) được thiết kế để truyền dữ liệu đáng tin cậy
lên đến 10 Mbit/giây, với băng thông có thể lên tới 16 MHz. Nó là một phần của
các tiêu chuẩn cáp đồng được xác định bởi Liên minh Công nghiệp Điện tử và Hiệp
hội Công nghiệp Viễn thông. Cat 3 là định dạng cáp phổ biến vào đầu những năm
1990, nhưng từ đó, nó gần như hoàn toàn được thay thế bằng tiêu chuẩn Cat 5
tương tự, nhưng mang lại tốc độ cao hơn.
Category
5
Cáp Category
5, thường được gọi là Cat 5, là một loại cáp xoắn đôi không có vỏ chống nhiễu
được thiết kế để đảm bảo tính toàn vẹn tín hiệu cao. Tiêu chuẩn thực tế của
Cat 5 xác định các tính chất điện cụ thể của dây, nhưng nó thường được đánh giá
bằng khả năng Ethernet là 100 Mbit/s. Chỉ định tiêu chuẩn cụ thể của nó là
EIA/TIA-568. Cáp Cat 5 thường có ba cặp xoắn mỗi inch, mỗi cặp xoắn gồm 24 dây
đồng. Việc xoắn cáp làm giảm hiện tượng nhiễu điện và nhiễu xuyên âm.
Một đặc điểm
quan trọng khác là dây dẫn được cách điện bằng nhựa (FEP) có độ phân tán thấp,
có nghĩa là hằng số điện môi của nhựa không phụ thuộc nhiều vào tần số. Cần chú
ý đặc biệt để giảm thiểu sự không phù hợp trở kháng tại các điểm kết nối.
áp Cat 5 thường
được sử dụng trong cáp cấu trúc cho mạng máy tính như Fast Ethernet, mặc dù
chúng cũng được sử dụng để truyền nhiều tín hiệu khác như dịch vụ thoại cơ bản,
token ring và ATM (lên tới 155 Mbit/giây).
Category
5e
Cáp Category
5e là phiên bản nâng cao của Cat 5 để sử dụng với mạng 1000BASE-T (gigabit), hoặc
cho các liên kết 100 Base-T đường dài (350 m, so với 100 m đối với Cat 5). Nó
phải đáp ứng các tiêu chuẩn EIA/TIA 568A-5. Hầu như tất cả các dây cáp được bán
dưới danh nghĩa Cat 5 thực ra là Cat 5e. Các dấu hiệu trên cáp có thể cho bạn
biết loại cáp chính xác.
Category
6
Tiêu chuẩn cho
Gigabit Ethernet và kết nối khác tương thích ngược với cáp Cat 5, Cat 5e và Cat
3. Cat 6 có đặc điểm kỹ thuật nghiêm ngặt hơn để đề phòng nhiễu xuyên âm và nhiễu
hệ thống. Tiêu chuẩn cáp phù hợp cho các kết nối 10BASE-T, 100BASE-TX và
1000BASE-T (Gigabit Ethernet).
Cáp có 4 cặp
dây đồng xoắn, giống như các tiêu chuẩn cáp đồng trước đó, mặc dù mỗi cặp xoắn
được tạo thành từ dây đồng khổ lớn hơn một chút so với 24 dây của Cat 5. Khi được
sử dụng làm cáp patch (cáp vá), Cat 6 thường sử dụng các đầu nối RJ-45. Nếu các
thành phần của các tiêu chuẩn cáp khác nhau được trộn lẫn, hiệu suất của đường
truyền tín hiệu sẽ bị giới hạn ở mức thấp nhất. Khoảng cách mà không làm hao hụt
dữ liệu là 220m.
Category
7
Category 7
(CAT7), (ISO/IEC 11801:2002 category 7/lớp F), là chuẩn cáp cho Ethernet siêu
nhanh và các công nghệ kết nối khác có thể tương thích ngược với cáp Ethernet
CAT5 và CAT6 truyền thống. CAT7 có đặc điểm kỹ thuật nghiêm ngặt hơn để phòng
hiện tượng nhiễu xuyên âm và nhiễu hệ thống tốt hơn so với CAT6. Để đạt được điều
này, vỏ chống nhiễu đã được thêm vào cho từng cặp dây và toàn bộ cáp
Tiêu chuẩn cáp
CAT7 đã được tạo ra để cho phép tín hiệu Ethernet 10 gigabit truyền trên 100m
cáp đồng. Cáp có 4 cặp dây đồng xoắn, giống như các tiêu chuẩn trước đó. CAT7
có các đầu nối RJ-45 tương thích GG45 kết hợp tiêu chuẩn RJ-45 và một loại kết
nối mới để cho phép truyền dữ liệu mượt mà hơn theo tiêu chuẩn mới. Khi kết hợp
với đầu nối GG-45, cáp CAT7 có tần số truyền lên tới 600 MHz.
Phân chia thì
là vậy, thậm chí sau Cat 6 còn có cả 6A, nhưng bạn dùng mạng ADSL tốc độ quanh
quẩn vài trăm KBps? Bạn không bao giờ hoặc rất ít khi phải copy/stream vài trăm
GB phim HD trong LAN? Router wifi nhà bạn chưa hỗ trợ nổi wifi chuẩn N chứ đừng
nói là chuẩn AC mới nhất? Xin cứ bám lấy dây Cat 5 cho thanh thản. Kể cả nếu có
làm hẳn vài máy trạm NAS trong nhà, nâng cấp lên Cat 5e cũng đã là lựa chọn tối
ưu rồi.
5. Power over Ethernet (PoE)
Tản mạn thêm một
chút, chúng ta còn có kết nối Ethernet tự cấp nguồn. Công nghệ Power over
Ethernet sử dụng khả năng dẫn điện sẵn có của 2 đôi dây dự phòng trong 4 đôi của
cáp xoắn đồng (thực chất chi 2 đôi được dùng để truyền dữ liệu) để truyền năng
lượng cho các thiết bị. Chiều truyền năng lượng có thể thay đổi theo nhu cầu, tạo
ra rất nhiều tiềm năng sử dụng. Ví dụ như bạn có thể đặt router wifi ở bất cứ
đâu mà không cần cắm điện, miễn là nó còn kết nối với modem – rất tiện lợi để
giảm số dây rợ trong phòng. Hoặc khi đem laptop đến một công sở nào có có triển
khai PoE, bạn sẽ không cần phải mang theo adapter lỉnh kỉnh nữa, chỉ cần cắm
dây mạng ở đó vào (tuy năng lượng cấp vào có thể chỉ đủ để sử dụng ở mức vừa phải).
Vấn đề lớn nhất của PoE là tất cả các thiết bị tham gia phải hỗ trợ công nghệ
này. Vì vậy khi muốn thử nghiệm trong nhà, bạn phải kiểm tra kĩ lưỡng thông tin
các thiết bị của mình.
Lưu
ý: Thực chất thì trong mạng LAN,
cũng có cả các loại cáp Ethernet quang, đồng.. chuyên dụng chứ không chỉ có cáp
xoắn. Nhưng giá của các thiết bị mạng hỗ trợ các loại cáp này thường không được
“bình dân” cho lắm.
II. Thiết bị mạng
Sau khi có địa
chỉ nhà, đường cũng đã xây xong. Giờ là lúc chúng ta tìm hiểu đến các bưu cục,
những người dẫn đường cho dữ liệu của bạn trên mạng.
1. Modem
Thực lòng mà nói,
đáng lẽ modem phải được giới thiệu ở cuối danh sách, sau khi bạn đọc đã hiểu
hơn về các loại thiết bị khác, nhưng do sự phổ biến của nó, chúng tôi quyết định
giới thiệu đầu tiên. Về căn bản, modem (viết tắt từ modulator and demodulator)
chỉ là thiết bị chuyển đổi tín hiệu từ dạng tương tự (analog) của mạng điện thoại
sang dạng số (digital) để các thiết bị điện tử của chúng ta hiểu và xử lý được.
Điều này áp dụng cho cả mạng di động dây và không dây, đó là lý do nếu để ý bạn
sẽ thấy nhiều trang bán hàng dùng cách nói “modem 3G” chứ không dùng cách gọi
dân dã USB 3G. Modem ra đời về cơ bản là để phục vụ mục đích này. Nhưng về lâu
dài do sự phát triển mạnh của phần cứng và nhu cầu sử dụng mạng cá nhân trong
phạm vi hẹp, các nhà sản xuất đã quyết định để thiết bị này đảm nhiệm hầu hết
các vai trò cần thiết cho một mạng gia đình cỡ nhỏ như NAT, DHCP, Firewall,
router hoặc switch layer 3, có lúc làm luôn cả wireless Access Point. Nghe thì
rất thuận tiện, nhưng vẫn nên nhớ rằng chỉ có chuyên môn hóa thì hiệu năng công
việc mới cao. Nếu bạn thử kết nối 4 máy tính và một vài chiếc điện thoại,
tablet vào một modem kiêm nhiệm tất cả các chức năng vừa nêu ở trên, bạn sẽ cảm
nhận được sự đuối sức của nó gần như ngay lập tức. Ngay cả các mẫu linksys đắt
tiền cũng chỉ vừa đủ để phục vụ hộ kinh doanh cỡ nhỏ như quán cafe.
2. Network Interface Card (NIC)
Khái niệm
Network Interface (giao diện mạng) được các nhà sản xuất giải thích theo nhiều
cách khác nhau tùy theo hoàn cảnh, nhưng để tổng hợp một cách đầy đủ chúng ta
có thể nói theo một cách có hơi khó hiểu rằng đây là một điểm giao tiếp giữa một
thiết bị điện toán với một thiết bị hay hệ thống mạng khác. Hai thiết bị sẽ
giao tiếp với nhau thông qua 2 network interface của chúng. Nghĩa là nếu trước
đây bạn nghe nói network interface là một thành phần phần cứng thì hoàn toàn
chưa đủ. Những ai đã từng cài máy ảo Vmware hay Virtual Box hẳn sẽ tìm thấy một
biểu tượng tên có dạng “Vmware Network Adapter 2” bên cạnh các biểu tượng tên dạng
“Local Area Network” hay “Wireless Area Adapter”. Tất cả đều là những điểm kết
nối, nhưng “Vmware Network Adapter 2” là một thành phần phần mềm do chương tình
Vmware tạo ra để giúp bạn kết nối với máy ảo. Còn “Local Area Network” hay
“Wireless Area Adapter” là các biểu tượng đại diện cho một thành phần phần cứng
trong máy bạn, chính là nhưng chiếc card mạng (Network Interface Card- NIC)
giúp máy tính của bạn giao tiếp bằng tín hiệu có dây hoặc không dây với thế giới
bên ngoài. Nếu có một ngày đẹp trời bạn phát cáu lên vì đống dây mạng lằng nhằng,
thao tác cần làm chỉ đơn giản là kiểm tra khe cắm còn trống trên mainboard, đi
mua một chiếc NIC wireless thích hợp về cắm vào, sau đó cài driver là PC vào mạng
wireless ngon lành. Công dụng của NIC là như vậy. Nếu không nắm vững được khái
niệm network interface, chắc chắn bạn sẽ gặp nhiều khó khăn khi mò tới các cấu
hình nâng cao trên PC, thiết bị mạng hay máy trạm cỡ nhỏ. Cũng cần nhớ luôn, mỗi
network interface dù là dựa trên phần cứng hay phần mềm cũng sẽ dùng một IP.
Đến đây chúng
ta dừng lại một chút để nhắc lại địa chỉ MAC, địa chỉ vật lý này như đã nói qua
trong bài trước là duy nhất cho mỗi thiết bị tham gia mạng, là một giải pháp
bên cạnh IP để phục vụ việc định danh thiết bị và tìm đường. Thực ra nói chính
xác hơn, đây là địa chỉ mà các nhà sản xuất bắt chết vào các NIC, nghĩa là ví dụ
laptop của bạn có 2 NIC (1 cho mạng dây và 1 cho không dây) thì sẽ có 2 địa chỉ
MAC. Laptop của bạn kết nối vào mạng không dây thì sẽ được các thiết bị thuộc mạng
không dây đó nhận ra bạn bằng MAC của NIC wireless, còn kết nối vào mạng dây
thì được thừa nhận bằng MAC của NIC còn lại. Các thiết bị di động, tablet dĩ
nhiên chỉ có thể có 1 MAC vì lấy đâu ra chỗ mà nhét nhiều, ai lại cắm dây mạng
vào tablet bao giờ?
Cũng vì vai
trò định danh độc nhất – tương tự như vai trò của vân tay với con người này nên
trong phần lớn trường hợp, chúng ta không cần và không nên đổi MAC. Phương pháp
đổi thực sự là tiến hành can thiệp sâu chỉnh sửa ROM (Read-only memory - bộ nhớ
chỉ đọc) của NIC chỉ hoạt động trên một vài model, và đòi hỏi khá nhiều kiến thức.
Còn các phương pháp can thiệp thường thấy trên mạng chỉ là phương pháp “đánh lừa”
để hệ điều hành và các thiết bị khác không đọc được MAC thật – thay vào đó chỉ
nhìn thấy địa chỉ giả do công cụ đó tạo ra. Các công cụ bạn tải về để thực hiện
việc này thường không an toàn, không nên mạo hiểm nếu không thực sự cần thiết.
Thay vào đó nếu bạn có nhu cầu chính đáng đó nên tìm hiểu sử dụng các phương
pháp mang tính chính thống hơn như chức năng MAC Cloning trên một số
modem/router Linksys và TP-link.
Lưu ý: nếu bạn đã nắm vững được về NIC thì việc nhớ cách dùng cáp thẳng - chéo
cũng rất đơn giản: nối giữa 2 thiết bị có NIC để giao tiếp với nhau thì dùng
cáp chéo (router có nhiều NIC, mỗi NIC đại diện giao tiếp với một mạng con), từ
một thiết bị có NIC sang một thiết bị không có NIC mà chỉ đóng vai trò trung
chuyển như hub,switch thì dùng cáp thẳng.
3. Repeater, Hub và Switch
Như chúng ta đều
biết, tín hiệu điện truyền đi trên dây sẽ hao hụt dần theo khoảng cách. Dạng sơ
khai nhất của Repeater (bộ khuếch đại) là một thiết bị có 2 cổng, 1 cổng để cắm
dây truyền tín hiệu (đã suy yếu) vào, 1 đầu để cắm dây truyền tín hiệu (đã được
repeater tiếp thêm năng lượng) đi tiếp, nhờ vậy truyền được tín hiệu đi xa hơn
mà không phải dùng các loại dây “xịn” như đã liệt kê ở trên.
Hub cũng chỉ
đơn giản là một repeater nhiều cổng, tín hiệu vào trên 1 cổng sẽ được đẩy ra
trên tất cả các cổng còn lại, vậy thôi. Nhưng nhiều cổng đồng nghĩa với nhiều
nguồn gửi, nhận dữ liệu khác nhau, mà hub cũng giống repeater chỉ là thiết bị nạp
thêm năng lượng cho tín hiệu điện, chẳng có mấy cơ chế để hiểu và quản lý đống
tín hiệu nó xử lý. Vì vậy khi nhiều máy tính trong mạng cùng gửi tín hiệu, nhiều
khả năng sẽ xảy ra xung đột dữ liệu (packet collision), Hub đôi lúc còn gây giảm
chất lượng kết nối hơn là tăng. Lấy ví dụ cho bạn đọc dễ hiểu, repeater giống
như một máy bơm đặt giữa đường ống nước để giúp đẩy nước từ bể A đến bể B nhanh
hơn. Nhưng còn Hub? Một máy bơm được nối đến nhiều bể chứa A,B,C,D; nước từ bể
A chảy đến máy bơm được tăng tốc đẩy về các bể B, C, D. Nhưng nếu cùng lúc đó
nước trong bể B và C cũng đang chảy về máy bơm? Đâm nhau là cái chắc! Các cơ chế
chống packet collision của hub hết sức hạn chế, ngày trước người ta còn mua tạm
để dùng thay switch do hub rẻ hơn, còn bây giờ giá switch rẻ như bèo thì hub hầu
như đã ngắc ngoải, họa chăng chỉ có repeater là còn có nơi dùng.
Nếu nhìn qua,
switch cũng giống hub, chỉ là một thiết bị tăng tín hiệu, gồm nhiều cổng để kết
nối nhiều máy tính lại với nhau tạo ra một mạng con. Khác biệt quan trọng nhất
là switch (trong suốt với hệ thống mạng,
các thiết bị mạng không nhận biết được sự có mặt của nó) có cơ chế thông
minh để đọc một phần nội dung dữ liệu gửi đi, từ đó giúp thực hiện hai thao
tác:
+ Một là xử lý
để quá trình truyền tín hiệu trên dây không xảy ra xung đột. Nếu bạn muốn tìm
hiểu kĩ hơn, phương pháp giao tiếp trong đó mỗi lần chỉ hỗ trợ để một đầu dây gửi
dữ liệu (nếu không sẽ xung đột) như hub gọi là half-duplex; còn switch và các
loại thiết bị mạng khác hiện nay đều có hoạt động với cơ chế full-duplex, tức
là cho phép gửi và nhận dữ liệu cùng lúc trên cùng một đường kết nối. Nếu không
có full-duplex, hoặc là bạn phải ngồi chờ cả ngày để đến lượt được vào
facebook, hoặc phải chấp nhận chuyện comment gửi lên sẽ hư hỏng kiểu như:
“choowj lâ qa”.
+ Hai là chỉ
chuyển dữ liệu đến đích cần thiết thay vì đẩy ra tất cả các cổng. Mỗi khi bật
switch lên, nó sẽ tiến hành tìm hiểu MAC của các thiết bị kết nối với từng cổng
của nó để biết cổng nào nối với thiết bị có MAC nào. Khi một PC trong LAN muốn
gửi dữ liệu, nó phải hai địa chỉ đích: IP và MAC. Địa chỉ IP thì dĩ nhiên là IP
public của người nhận thư, như chúng ta đã biết trong phần trước. Nhưng còn MAC
đích? Nếu bên nhận là máy cùng mạng LAN, MAC đích dĩ nhiên là MAC của máy đó
(nói dài dòng đầy đủ thì là MAC của NIC mà máy đó dùng để kết nối với switch, kẻo
sau này lại có bạn đọc nhầm với MAC của card wifi). Còn nếu bên nhận không nằm
cùng mạng LAN, PC sẽ đặt MAC đích là MAC của default gateway - thường là
router, modem – để nhờ router đó tiến hành “tìm đường” ra Internet dựa trên địa
chỉ IP. Một switch cơ bản sẽ cứ dựa theo MAC đích để đẩy tín hiệu ra đúng cổng
là xong nhiệm vụ.
Chúng ta cần
hiểu rõ cơ chế chuyển mạch cơ bản ở trên để kịp thời phát hiện kiểu “chọc phá”
phổ biến hiện nay: ARP poisoning. Khi tín hiệu chỉ đi qua một switch căn bản
như vậy, các máy trong mạng LAN sẽ có cảm giác như đang liên lạc trực tiếp với
nhau chứ không qua thiết bị trung gian nào cả. Cơ chế ARP mà các thiết bị dùng
để hỏi MAC của các máy cùng LAN với mình vì thế rất đơn giản và dễ dãi, cũng giống
tình huống kiểu khi anh hàng xóm vừa ba hoa rằng mình học Havard ra là cả xóm bạn
đã tin sái cổ ngay rồi. Nếu đang dùng Windows, bạn có thể bật cmd lên gõ arp –a
để xem thử bảng thông tin IP-MAC của máy mình. Dạng quấy phá đơn giản nhất là
thủ phạm biến MAC address của IP 192.168.1.1 (default gateway phổ biến nhất)
trong bảng mà bạn vừa xem thành MAC của hắn, thế là PC và switch cứ hồn nhiên
chuyển dữ liệu của bạn vào đó. Kết nối của Internet của bạn lúc này coi như mất
hẳn còn thủ phạm thì phởn phơ xem trộm các dữ liệu bạn gửi ra hoặc đơn giản là
tranh thủ lúc không ai tranh băng thông liền lên mạng…du học. Các biến thể nguy
hiểm hơn và cách phòng chống chúng ta sẽ để dành cho các bài viết về bảo mật,
còn hiện tại nếu đang dùng chung mạng với nhiều người “không tin tưởng được” -
bạn chỉ cần biết rằng khi mạng hoạt động bình thường nên tìm cách lưu lại MAC của
default gateway (hoặc cả mạng càng tốt); nếu gặp sự cố thì còn có thứ đối chiếu
lại để xem mình có đang bị chơi xấu không.
Arp Table.
Nói chung các loại switch cơ bản (unmanaged) hoạt động hoàn toàn tự động, máy móc nối trực tiếp đến chúng còn không biết là có thiết bị trung gian nữa là … người. Các switch này không giao tiếp trực tiếp với PC, laptop nên cũng không có NIC, tức là cũng không có MAC hay IP riêng. Vì vậy ngoài lưu ý về MAC đã nêu ở trên và việc chọn loại dây cho đúng (nếu switch không có Auto-MIDX), chúng ta không cần nhớ thông tin cấu hình gì phức tạp cho switch cả. Chỉ cần nối các thiết bị trong nhà vào switch, ít thì 1 chú mà nhiều lắm thì 3 "chú" - tương ứng với việc chia các thiết bị thành 3 mạng con, mỗi switch nhớ để dành một cổng nối về default gateway ra Internet (router/modem trong nhà) là bạn xong việc với đám switch.
Lưu ý 1: Bridge cũng là thiết bị hoạt động dựa trên tương tự địa chỉ MAC như
switch, nhưng có ít cổng hơn. Trong khi switch phục vụ việc kết nối các máy đầu
cuối (laptop, PC, server) với nhau để tạo thành các mạng con thì bridge chủ yếu
phục vụ việc nối 2 mạng con vào với nhau. Với nhu cầu dân dụng, chúng ta thường
dùng luôn các router cơ bản để làm công việc này giúp đơn giản hóa vấn đề.
Lưu ý 2: Các loại switch có cơ chế hoạt động dính dáng tới IP thường là switch
layer 3, chủ yếu dùng cho môi trường doanh nghiệp. Trong gia đình nếu cần cài đặt
hệ thống có hơi phức tạp có dính dáng tới định tuyến bằng IP thì nên dùng
router vẫn hơn.
4. Router
Nếu nói hệ thống
mạng có dây là xương sống của Internet, thì các router là các các đốt sống quan
trọng nhất trên đó. Ta có địa chỉ cho mỗi máy tính, có dây dẫn là con đường nối
giữa các máy đó, vậy đã xong chưa? Dữ liệu gửi từ máy A đến máy B, cũng tương tự
như một bức thư gửi từ nhà anh A đến nhà cô B, nếu không có người giúp chuyển
đi thì làm sao chúng biết tự tìm đường đến nơi? Switch chỉ là thiết bị kết nối
một lượng nhỏ máy để tạo ra mạng con, chỉ biết xem xem MAC đích có nằm trong số
những máy kết nối trực tiếp với nó (hoặc cùng lắm là cách 1 2 con switch,
bridge phụ) không thì đẩy ra cổng tương ứng, còn không là thì đành đẩy bừa ra tất
cả các cổng (flooding), phương pháp hoàn toàn bất hợp lý nếu đem áp dụng cho hệ
thống mạng diện rộng với hàng ngàn, hàng triệu máy tính.
Đây là lúc ta
cần đến router – các bưu cục. Trên router sẽ lưu thông tin đường đi đến các thiết
bị trong mạng dựa trên địa chỉ IP (xong việc với switch tạm coi như chúng ta đã
xong việc với MAC), có thể là thông tin đường đi của mạng LAN dạng phức tạp hoặc
các mạng WAN để khi dữ liệu đi qua router, nó sẽ biết nên chỉ đường cho dữ liệu
đó đi hướng nào. Nếu một router không biết thông tin hướng đi trực tiếp đến
đích thì chí ít cũng biết nên chỉ đường cho dữ liệu tìm đến router nào để…. hỏi
đường tiếp. Cũng tương tự như khi bạn nhờ bưu điện Hà Nội chuyển thư sang Mỹ,
tuy không rõ đường đi nước bước ở Mỹ nhưng bưu điện HN sẽ có thể chuyển tiếp
thư đó sang các tổ chức bưu chính quốc tế, các tổ chức này giúp chuyển về các
bưu điện của Mỹ để rồi các bưu điện này sẽ chịu trách nhiệm đưa thư về một địa
chỉ cụ thể vậy. Hệ thống các router kết nối vào với nhau sẽ bảo đảm dữ liệu
luôn được đưa đến đích miễn là đích đó có tồn tại (và không bị chặn).
Trong phạm vi
gia đình, phần lớn trường hợp chúng ta chỉ cần 1 modem kiêm router và wifi,
cùng lắm thì có thêm 1 router wifi, quá trình nhận ra địa chỉ LAN-WAN để xác định
đường đi vì vậy thường sẽ diễn ra tự động hoặc do ktv của ISP làm sẵn– các máy
PC, laptop cũng sẽ tự biết đặt default gateway là router đó của bạn. Hơn nữa để
tìm hiểu các cơ chế định tuyến (tìm đường), bạn cần có thêm một chút hiểu biết
cấu trúc của địa chỉ IP, về subnet, netmask và wildcard mask, vì vậy chúng ta
cũng sẽ không vội đào bới sâu đến các cơ chế này này ở đây. Để phục vụ home
networking, trước hết hãy bảo đảm rằng bạn nắm được các vấn đề về cổng kết nối
như sau:
Đây là hình ảnh một router “chính
thống”, tức không phải một modem tích hợp chức năng định tuyến. Như chúng ta thấy
trên đó có một cổng WAN, đại diện cho NIC phụ trách việc kết nối ra mạng
Internet, đây sẽ là NIC mang IP public của bạn, đứng ra đại diện giúp bạn giao
tiếp với thế giới. Bốn cổng LAN này nối trực tiếp vào PC, laptop hoặc nối vào
các switch quản lý mạng con tương ứng, và trên phần lớn các router hiện nay thì
bốn cổng này đều thuộc chung một Ethernet NIC phụ trách việc kết nối vào các
máy trong mạng LAN. Nghĩa là bạn muốn dùng bao nhiêu con switch thì dùng, nối
thế nào thì nối, thậm chí là nghịch ngợm subnet thế nào thì nghịch, tất cả các
máy trong mạng của bạn sẽ có chung default gateway là NIC phụ trách LAN đó (Với
IP mặc định thường gặp đặt là 192.168.1.1). Tổng cộng router của bạn có 2 NIC
và 2 IP, mọi kết nối ra Internet sẽ phải thông qua 2 anh này, 1 trong hai anh
mà có vấn đề gì thì dù có 4 cổng LAN bạn vẫn cứ phải… thay router mới như thường,
vì không dễ gì mà tháo lắp NIC trên các router dân dụng này được.
Thực chất trên
các loại router chuyên dụng cho nhà mạng hay doanh nghiệp cỡ lớn thì mỗi port
tương ứng với một NIC, có IP, MAC riêng và phụ trách một mạng LAN riêng rẽ (hoặc
nhiều NIC mỗi NIC phụ trách vài port). Nghe thì có vẻ tiện lợi vì hỏng một NIC
không phải là hỏng hết, nhưng cũng vì thế mà đòi hỏi cần có kiến thức kha khá về
mạng để cấu hình định tuyến chứ không được các router bình dân điển hình, như
đã nói ở trên là mọi thứ diễn ra hầu như tự động (nói cho chính xác thì cũng
như repeater: 1 đầu ra 1 đầu vào, cứ đẩy tín hiệu ra là xong, muốn phức tạp
cũng chẳng được).
Đối với nhu cầu
home networking hay kinh doanh cỡ nhỏ, ngoài những loại điển hình 2 NIC này thì
cũng nên lưu ý một số loại xuất hiện thêm một cổng WAN nữa, nghĩa là thêm 1 NIC
giúp kết nối với 2 nhà mạng một lúc, ví dụ như một số sản phẩm của Draytek .
Các sản phẩm này thuộc phân khúc cao cấp hơn, giá thành cũng cao hơn kha khá
(thực ra cũng không quá đắt nếu so với mấy chú router wifi hạng “sang” của
linksys), nhưng sự tiện lợi chúng đem lại cũng đáng để cân nhắc nếu gia đình bạn
có điều kiện. Chẳng may hôm nào VNPT lại đứt cáp biển còn có đường truyền
Viettel dùng tạm.
Còn đây là mặt
sau một chú modem kiêm đủ loại chức năng điển hình. Cổng WAN được thay thế bằng
cổng DSL (đường dây điện thoại), cơ chế hoạt động cũng không có khác biệt gì lớn
(1 NIC cho cổng DSL và 1 network interface chung cho tất cả các kết nối trong
LAN gồm 4 cổng kết nối có dây và các kết nối không dây), được cái tiện lợi hơn
rất nhiều cho việc quản lý.
Để giúp bạn đọc
hiểu rõ hơn tại sao sử dụng modem đa năng như trên tiện lợi hơn rất nhiều, hãy
giả sử thế này: Nhà bạn có 2 PC 2 laptop, không có switch mà chỉ có modem một cổng
LAN và một chú router "thuần chủng" như phía trên kia. Bây giờ muốn kết
nối ra internet các bước sẽ dài lê thê: cắm dây DSL vào modem, nối cổng LAN của
modem vào cổng WAN của router, nối hết các máy vào router (không có wifi), đặt
IP cho NIC LAN của router và modem sao cho không trùng nhau, cả NIC WAN của
router lúc này cũng có thể phải đặt thủ công tùy theo loại thiết bị, kiểm tra để
chỉ NAT và DHCP trên một thiết bị, kiểm tra các máy xem default gateway chỉ
đúng ra modem chưa, kiểm tra định tuyến của router để xem đã đẩy được dữ liệu
ra modem chưa, mỗi lần cấu hình kết nối ADSL phải bảo đảm truy cập vào giao diện
quản lý của modem chứ không phải router, vv...
Vâng, và đấy là còn chưa phải cấu hình định tuyến chia subnet gì phức tạp. Đến đây chắc bạn cũng hiểu vấn đề: trong hộ gia đình chỉ cần một modem kiêm router là đủ rồi, cần mở rộng số lượng máy thì hãy cứ bám lấy switch, không cần thiết phải rước nhiều router về cho oách (như đã nói việc phân chia mạng thành các subnet chủ yếu phục vụ cho nhu cầu quản lý của các doanh nghiệp, tổ chức, nhà mạng). Còn nhỡ bạn có nhu cầu dùng router wifi? Trong bài viết sau, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về hệ thống mạng không dây.
Xin chào, Mình là Hoàng!
Trả lờiXóa